Nguyễn Cung Thông
January 16, 20140 Bình Luận
January 16, 20140 Bình Luận
Nguyễn Cung ThôngThứ năm ngày 16 tháng 1 năm 2014
Phần này tóm tắt các chi tiết và bổ túc bài viết1 “Nguồn gốc Việt (Nam) của tên gọi 12 con giáp – Ngọ ngựa (phần 13)”, do đó số thứ tự của bài viết này là 13A; những bài viết sau nữa về Ngọ ngựa sẽ có số thứ tự là 13B, 13C … để người đọc dễ tra cứu thêm. Tương tự như thế, các bài viết về Mão mẹo mèo được đánh số là 4, 4A, 4B …v.v… Dấu hoa thị * dùng để chỉ âm cổ phục nguyên. Các tài liệu viết tắt là TVGT Thuyết Văn Giải Tự (khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), Tập Vận (TV/1037/1067), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), Tự Vị Bổ (TViB/1666), KH (Khang Hi/1716), HNĐTĐ (Hán Ngữ Đại Tự Điển/1986), Thiết Vận (ThV/601), Vận Kinh (VK/1161), VBL (Dictionarium Annamiticum-Lusitanum-Latinum, Alexandre de Rhodes, 1615). Xem lại các cách đọc của các chữ liên hệ như mã, ngọ, ngự:
1. 午 có các cách đọc (thanh mẫu nghi 疑 vận mẫu mô 模 thượng thanh, khai khẩu nhất đẳng) theo phiên thiết
疑古切,音五 nghi cổ thiết, âm ngũ (TVGT, ĐV, QV, TV, VH, CV)
吳古切 ngô cổ thiết (NT, TTTH)
五故切 ngũ cố thiết (TV, LT)
阮古切 nguyễn cổ thiết (TV)
阮古切,音五 nguyễn cổ thiết, âm ngũ (TVi)
吾古切,音五 ngô cổ thiết, âm ngũ (CTT) – âm ngọ và ngũ đều đọc là wǔ theo giọng BK bây giờ so với giọng Quảng Đông ng5, Hẹ/Triều Châu ng3, ngou2…v.v…
吳古切 ngô cổ thiết (NT, TTTH)
五故切 ngũ cố thiết (TV, LT)
阮古切 nguyễn cổ thiết (TV)
阮古切,音五 nguyễn cổ thiết, âm ngũ (TVi)
吾古切,音五 ngô cổ thiết, âm ngũ (CTT) – âm ngọ và ngũ đều đọc là wǔ theo giọng BK bây giờ so với giọng Quảng Đông ng5, Hẹ/Triều Châu ng3, ngou2…v.v…
Giáp cốt văn/Kim văn/Tiểu triện/Khải thể của chữ Ngọ
Một dạng âm cổ phục nguyên của Ngọ là *ŋu dựa vào các âm địa phương TQ và âm Hán Việt (phiên thiết). Một nghĩa cổ của Ngọ (gốc Hán Tạng) là gặp (NT, QV, TV), đây cũng là lý do chữ ngỗ 迕 cũng dùng thông với chữ ngộ 遇 (mặt chạm mặt, đi ngược chiều nhau, gặp). Từ các nét khắc/vẽ trên Giáp Cốt và Kim văn, ta có thể thấy ngay chữ Ngọ tượng hình: giống như một cái dùi hay chày (giã gạo) và không liên hệ gì đến loài ngựa. Điều này còn thể hiện qua chữ xử 杵 nghĩa là cái chày, ngoài ra thành phần hài thanh Ngọ 午 có thể liên hệ đến động tác gõ (khõ), cú (cú đầu) đều có phụ âm đầu ở cuối lưỡi (k, g, ŋ so với khấu 扣).
2.Chữ mã 馬 có các cách đọc (thanh mẫu minh 明 vận mẫu ma 麻 thượng thanh, khai khẩu nhị đẳng) theo phiên thiết
莫下切 mạc hạ thiết (TVGT, ĐV, QV, CV, LT)
莫下反 mạc hạ phản (LKTG)
莫把切 mạc bả thiết (NT, TTTH)
母下切,麻上聲 mẫu hạ thiết, ma thượng thanh (TV, VH)
滿補切,音姥 mãn bổ thiết, âm mỗ (TV, LT)
莫雅切,麻上聲 mạc nhã thiết, ma thượng thanh (TVi, CTT)
…v.v…
莫下反 mạc hạ phản (LKTG)
莫把切 mạc bả thiết (NT, TTTH)
母下切,麻上聲 mẫu hạ thiết, ma thượng thanh (TV, VH)
滿補切,音姥 mãn bổ thiết, âm mỗ (TV, LT)
莫雅切,麻上聲 mạc nhã thiết, ma thượng thanh (TVi, CTT)
…v.v…
Giọng BK bây giờ là mǎ so với các giọng địa phương TQ như giọng Quảng Đông là maa5, Hẹ/Triều Châu ma1, ma3/bhê2 maⁿ2.
Mã có một dạng cổ phục nguyên là *ma hay *mra, gốc Hán Tạng so với tiếng Thái ม้า máa cùng nghĩa, các vết khắc/vẽ cổ cho thấy chữ mã tượng hình: giống hình con ngựa (dựng đứng để phù hợp với cách viết từ trên xuống dưới).
Mã có một dạng cổ phục nguyên là *ma hay *mra, gốc Hán Tạng so với tiếng Thái ม้า máa cùng nghĩa, các vết khắc/vẽ cổ cho thấy chữ mã tượng hình: giống hình con ngựa (dựng đứng để phù hợp với cách viết từ trên xuống dưới).
Giáp cốt văn/Kim văn/Tiểu triện/Khải thể của chữ mã
Rõ ràng là mã và ngọ không có tương quan ngữ âm rõ ràng trong tiếng Hán. Tuy nhiên học giả Paul K. Benedict2 có đề nghị rằng mã có nguồn gốc là *ŋ(w)a (hay ngựa tiếng Việt) sau khi so sánh các tên ngựa (tiếng Việt), ŋa/ka (tiếng Lê 黎 ở đảo Hải Nam), ngua (tiếng Nam Kelao), niau (tiếng Bắc Kelao), ngo (tiếng Lati) so với tên chi thứ 7 Ngọ mà GS Robert Schafer (1957) phục nguyên âm cổ là *m-ŋa. Benedict đưa ra một dữ kiện ngôn ngữ đáng chú ý là ŋa tiếng Lê ngoài nghĩa ngựa còn có nghĩa là mở ra (so với dạng ngỏ tiếng Việt và ngả).
3.Chữ ngự 馭 thường dùng làm chữ Nôm ngựa (Tam Thiên Tự, Ngũ Thiên Tự, Béhaine/Taberd …); ngự (thanh mẫu nghi 疑 vận mẫu ngư 魚 khứ thanh, khai khẩu tam đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết
牛倨切 ngưu cứ thiết (QV)
牛據切 ngưu cứ thiết (TVGT, TV)
魚據切,語去聲 ngư cứ thiết, ngữ khứ thanh (NT, CV, TVi, CTT)- TVi/CTT ghi thêm 音遇 âm ngộ (yù BK)
偶舉切 ngẫu cử thiết (LTCN)
…v.v…
牛據切 ngưu cứ thiết (TVGT, TV)
魚據切,語去聲 ngư cứ thiết, ngữ khứ thanh (NT, CV, TVi, CTT)- TVi/CTT ghi thêm 音遇 âm ngộ (yù BK)
偶舉切 ngẫu cử thiết (LTCN)
…v.v…
Giọng Quảng Đông là jyu6 (so với yù BK), âm cổ được duy trì trong các giọng Hẹ/Triều Châu ngi3, ngi4, ngi5, ngi6.
Béhaine/1772
Ngừa (ngăn ngừa) chữ Nôm cũng dùng chữ ngự 馭. Chính nét nghĩa ngăn cản, kiểm soát (dùng như chữ ngự 御) đã dẫn đến dạng ngừa3 (tiếng Việt) từ ngự HV (dây cương). Tương tự trong các nền văn hóa khá, như cách dùng tiếng Anh rein (dây cương, danh từ – tiếng Pháp rêne) đã từ phạm trù cụ thể mở rộng nghĩa để chỉ hoạt động kiểm soát một cách tổng quát hơn:
The Government is keeping a tight rein on public expenditure.
(Nhà nước đang kiểm soát chặt chẽ/giữ chặt dây cương các chi tiêu công cộng)
(Nhà nước đang kiểm soát chặt chẽ/giữ chặt dây cương các chi tiêu công cộng)
To give somebody free rein (cho ai tự do hành/hoạt động/không còn dây cương chi phối – tiếng Pháp donner carte blanche à quelqu’un).
Ta cũng thấy khuynh hướng mở rộng nghĩa từ cụ thể đến trừu tượng trong cách dùng tiếng Anh harness, bridle (cũng có nghĩa là dây cương).
Chữ ngự bộ mã cho ta biết nghĩa dễ dàng hơn vì có chữ mã và chữ hựu 又 (Kim văn tượng hình cái roi, Tiểu triện có hình bàn tay) so với chữ ngự bộ xích. Chữ ngự bộ mã hiện diện trong Tuân Tử, Chánh Luận 《荀子•正論》.
Chữ ngự bộ mã cho ta biết nghĩa dễ dàng hơn vì có chữ mã và chữ hựu 又 (Kim văn tượng hình cái roi, Tiểu triện có hình bàn tay) so với chữ ngự bộ xích. Chữ ngự bộ mã hiện diện trong Tuân Tử, Chánh Luận 《荀子•正論》.
Kim văn/Tiểu triện/Khải thể của chữ ngự bộ mã
4. Chữ ngự 御 禦 có các cách đọc (thanh mẫu nghi 疑 vận mẫu ngư 魚 khứ thanh, khai khẩu tam đẳng) theo phiên thiết
牛據切 ngưu cứ thiết (TVGT, ĐV, NT, TV, LT, TTTH, CTT)- CTT ghi thêm âm ngộ 音遇
牛倨切 ngưu cứ thiết (QV)
魚據反 ngư cứ phản (LKTG)
偶舉切 ngẫu cử thiết (TV, LT)
魚駕切,牙去聲 ngư giá thiết, nha khứ thanh (TV)
五駕切,牙去聲 ngũ giá thiết, nha khứ thanh (TVi)
…v.v…
牛倨切 ngưu cứ thiết (QV)
魚據反 ngư cứ phản (LKTG)
偶舉切 ngẫu cử thiết (TV, LT)
魚駕切,牙去聲 ngư giá thiết, nha khứ thanh (TV)
五駕切,牙去聲 ngũ giá thiết, nha khứ thanh (TVi)
…v.v…
Các giọng địa phương TQ như Quảng Đông jyu6 ngaa6 so với Hẹ/Triều Châu ngi4/ngi6, yi4, gni6 – giọng BK bây giờ là yú.
Ngự bộ xích có nhiều nghĩa hơn so với ngư bộ mã: như điều khiển xe ngựa, tiến dâng, nghênh đón, cai trị … (động từ) so với người đánh xe, người hầu … (danh từ). Chữ ngự bộ xích hiện diện trong Luận Ngữ, Vi Chánh 《論語•為政》, Mạnh Tử/Đằng Văn Công Hạ 《孟子•滕文公下》, Lễ Ký/Truy Y 《禮記•緇衣》, Tuân Tử/Đại Lược 《荀子•大略》, Thuyết Uyển/Tu Văn 《說苑•脩文》 …v.v…
Ngự bộ xích có nhiều nghĩa hơn so với ngư bộ mã: như điều khiển xe ngựa, tiến dâng, nghênh đón, cai trị … (động từ) so với người đánh xe, người hầu … (danh từ). Chữ ngự bộ xích hiện diện trong Luận Ngữ, Vi Chánh 《論語•為政》, Mạnh Tử/Đằng Văn Công Hạ 《孟子•滕文公下》, Lễ Ký/Truy Y 《禮記•緇衣》, Tuân Tử/Đại Lược 《荀子•大略》, Thuyết Uyển/Tu Văn 《說苑•脩文》 …v.v…
Kim văn/Tiểu triện/Khải thể của chữ ngự bộ xích
Một dạng âm cổ phục nguyên của ngự là *ngioh hay *ŋĭo dựa vào các âm đọc địa phương (còn bảo lưu âm cổ) và âm Hán Việt (phiên thiết).
5. Chữ hiếm ngũ 䮏 (Unicode 4B8F) từng được Tập Vận, Loại Thiên ghi là tên gọi ngựa – đây có thể là tàn tích của âm *ŋux (nghĩa là con ngựa) đã nhập vào tiếng Hán, nhưng không được dùng vì danh từ mã (gốc Hán Tạng) đã có! Chỉ có dạng Ngọ 午 (trong tên 12 con giáp) vẫn còn tồn tại vì liên hệ đến tín ngưỡng dân gian, cũng như dùng trong phép tính thời gian. Chữ 䮏 có các cách đọc theo phiên thiết
訛湖切 ngoa hồ thiết (LT) – có tài liệu (CTT) ghi vần hồ là 胡 (xem bảng chụp), âm ngũ 音五
五乎切 ngũ hô thiết (TVi, TTTH)
…v.v…
五乎切 ngũ hô thiết (TVi, TTTH)
…v.v…
Giọng Quảng Đông là ng4/ng6 so với giọng BK bây giờ là wú.
Tập Vận Loại Thiên
Có khoảng 30 tên gọi ngựa được KH ghi nhận (mã danh). Trong các danh từ thu lượm từ các nơi, ta có thể tìm gặp vết tích của một số tiếng địa phương4 (hay ngoại quốc nhập vào tiếng Hán) mà ít người biết đến. Các tiếng chỉ ngựa liên hệ là ngia4 (tiếng Rục, Thà Vựng, Cuối, Mường), măngơ (Maleng kari, brô), ŋa/ka (tiếng Lê 黎 ở đảo Hải Nam), ngua (tiếng Nam Kelao), niau (tiếng Bắc Kelao), ngo (tiếng Lati): ta có cơ sở vững chắc để phục nguyên một dạng âm cổ5 của ngựa là *ŋux. Chính dạng này đã được kí âm gần đúng bằng tiếng Hán ngọ/ngũ 午 trong tên gọi 12 con giáp, người Hán không hiểu tương quan giữa ngựa và Ngọ vì danh từ ngựa không nằm trong ngôn ngữ chính thống của họ (mã); vì thế họ còn dùng từ kép Ngọ mã 午馬 để cho dễ hiểu hơn!
6. Phụ chú và phê bình thêm
Phần này không hoàn toàn theo cách ghi tài liệu (Bibliography) tham khảo APA hay MLA vì bao gồm các phê bình thêm về đề tài, tài liệu và tác giả để người đọc có thể tra cứu thêm chi tiết và chính xác. Loạt bài “Nguồn gốc Việt (Nam) của tên gọi 12 con giáp” (cùng tác giả) đã có một số đăng trong Kỉ Yếu Hội Thảo Ngôn Ngữ Học, Việt Nam Học và các trang mạng văn hoá như vanchuongviet.org, khoahocnet.com, e-cadao.com ….v.v… Bạn đọc có thể tham khảo thêm từ các nguồn tài liệu trên, cùng với hai bài viết liên hệ đến phần này là “Chữ Ngọ, từ sợi dây cương đến con ngựa” của An Chi (đăng lần đầu tiên trên “Kiến Thức ngày nay” số 413 Xuân Nhâm Ngọ 2002) và bài “Le cycle des douze animaux: histoire d’un contact ancien entre Vietnam et Cambodge” của Michel Ferlus (Hội thảo Ngôn Ngữ Học – the sixth International Symposium on Pan-Asiatic Linguistics – Hà Nội 25-26 November 2004).
Tượng binh mã 兵馬俑 của Tần Thuỷ Hoàng (221 TCN) ở Tây An, Thiểm Tây TQ; trích từ bài viết “Timeline of the Development of the Horse” tác giả Berverley Davis đăng trên trang Sino-Platonic Papers 8/2007. Tác giả đề nghị ngựa nhập vào TQ khoảng 1200 đến 900 TCN và mã tiếng Hán có thể liên hệ đến mare (ngựa cái, tiếng Anh), mark (người cưỡi ngựa, tiếng Ái Nhĩ Lan) và maal (ngựa làm việc/workhorse, tiếng Ba Tư). Xem toàn bài trang này http://www.sino-platonic.org/complete/spp177_horses.html
1) Nguyễn Cung Thông, 2009 “Nguồn gốc Việt (Nam) của tên gọi 12 con giáp – Ngọ ngựa (phần 13)” – xem toàn bài trang này http://newvietart.com/Ngo-Ngu-Ngua-1.pdf
2) Benedict, Paul K. 1975 “Austro-Thai, Language and Culture. With a Glossary of Roots” NXB HRAF Press (New Haven, Connecticut – Mỹ). Tác giả là một trong những học giả tiên phong đề nghị nguồn gốc phi-Hán của một số thành phần văn hoá ngôn ngữ Trung Quốc: như số đếm lớn hơn 100 (vạn, triệu …), tên 12 con giáp, tên một số loài cây như chuối, dừa …v.v… Benedict cũng đưa ra nhận xét là tiếng Lê (Hải Nam) ŋa (ngựa) còn có nghĩa là mở (mở miệng, mở cửa, mở mắt …) – theo người viết (NCT), điều này còn tương ứng với ngửa và ngỏ tiếng Việt (ngửa mặt, ngửa tay … ngỏ lời/mở lời). Theo Benedict, có thể mở (ngửa) chân ra để cưỡi ngựa liên hệ đến tên gọi loài vật này hay ngựa (trang 289-290, sđd).
3) theo học giả An Chi/AC (2000), và dựa vào Vương Lực (1948), thì danh từ ngựa có gốc là động từ ngự: từ ‘giữ ngựa’ chuyển thành ‘con vật được chăn giữ’. Thật ra khuynh hướng ngược lại mới thường xẩy ra hơn (tự nhiên hơn, vì ngựa hiện diện trước các dụng cụ liên hệ như yên ngựa, dây cương …). Hãy xem các từ chỉ dây cương trong vốn từ Hán:
2) Benedict, Paul K. 1975 “Austro-Thai, Language and Culture. With a Glossary of Roots” NXB HRAF Press (New Haven, Connecticut – Mỹ). Tác giả là một trong những học giả tiên phong đề nghị nguồn gốc phi-Hán của một số thành phần văn hoá ngôn ngữ Trung Quốc: như số đếm lớn hơn 100 (vạn, triệu …), tên 12 con giáp, tên một số loài cây như chuối, dừa …v.v… Benedict cũng đưa ra nhận xét là tiếng Lê (Hải Nam) ŋa (ngựa) còn có nghĩa là mở (mở miệng, mở cửa, mở mắt …) – theo người viết (NCT), điều này còn tương ứng với ngửa và ngỏ tiếng Việt (ngửa mặt, ngửa tay … ngỏ lời/mở lời). Theo Benedict, có thể mở (ngửa) chân ra để cưỡi ngựa liên hệ đến tên gọi loài vật này hay ngựa (trang 289-290, sđd).
3) theo học giả An Chi/AC (2000), và dựa vào Vương Lực (1948), thì danh từ ngựa có gốc là động từ ngự: từ ‘giữ ngựa’ chuyển thành ‘con vật được chăn giữ’. Thật ra khuynh hướng ngược lại mới thường xẩy ra hơn (tự nhiên hơn, vì ngựa hiện diện trước các dụng cụ liên hệ như yên ngựa, dây cương …). Hãy xem các từ chỉ dây cương trong vốn từ Hán:
Đích 靮 bộ cách
Bá 靶 bộ cách
Không 鞚 bộ cách (cũng là cái dàm)
Huyễn 䩙 bộ cách (cũng là đao)
Cách 䪂 bộ cách
Điêu 䩦 bộ cách
Cương 韁 bộ cách
…
Cương 繮 bộ mịch
Tiết 絏 bộ mịch (cũng là dây trói buộc) – hay còn viết là 紲
Nhĩ 䋙 bộ mịch
…
Bí 轡 bộ xa
Nạp 軜 bộ xa
…v.v…
Tất cả các danh từ chỉ dây cương trên không có từ nào chuyển nghĩa theo hoán dụ để chỉ con ngựa theo cách lý giải của AC! Vấn đề có lẽ thấy rõ hơn khi ta xem lại cách dùng của bộ mã trong quá trình cấu tạo chữ Hán. Tuấn 駿 nghĩa nguyên thuỷ là con ngựa tốt, mở rộng nghĩa để chỉ phẩm chất tài giỏi, trí tuệ vượt bực và thông với tuấn bộ nhân 俊. Khảo sát tâm lý loài ngựa cho thấy chúng rất dễ bị hoảng sợ khi thấy một vật gì hay sự việc gì không bình thường: đây là hiện tượng fight or flight trong Sinh học – tạm dịch “là chống hoặc bỏ chạy”/phản ứng stress cấp tính. Đây là một lý do mà chữ hãi (sợ hãi) được viết bằng bộ mã hợp với chữ Hợi (hãi) hài thanh 駭, sau này mở rộng nghĩa để chỉ trạng thái sợ hãi một cách tổng quát. Chữ kinh (kinh hãi) cũng viết bằng bộ mã 驚, sau này viết bằng bộ tâm 惊 (giản thể, cho rõ nghĩa hơn). Chữ kiêu (kiêu ngạo) cũng viết bằng bộ mã 驕 …
Bá 靶 bộ cách
Không 鞚 bộ cách (cũng là cái dàm)
Huyễn 䩙 bộ cách (cũng là đao)
Cách 䪂 bộ cách
Điêu 䩦 bộ cách
Cương 韁 bộ cách
…
Cương 繮 bộ mịch
Tiết 絏 bộ mịch (cũng là dây trói buộc) – hay còn viết là 紲
Nhĩ 䋙 bộ mịch
…
Bí 轡 bộ xa
Nạp 軜 bộ xa
…v.v…
Tất cả các danh từ chỉ dây cương trên không có từ nào chuyển nghĩa theo hoán dụ để chỉ con ngựa theo cách lý giải của AC! Vấn đề có lẽ thấy rõ hơn khi ta xem lại cách dùng của bộ mã trong quá trình cấu tạo chữ Hán. Tuấn 駿 nghĩa nguyên thuỷ là con ngựa tốt, mở rộng nghĩa để chỉ phẩm chất tài giỏi, trí tuệ vượt bực và thông với tuấn bộ nhân 俊. Khảo sát tâm lý loài ngựa cho thấy chúng rất dễ bị hoảng sợ khi thấy một vật gì hay sự việc gì không bình thường: đây là hiện tượng fight or flight trong Sinh học – tạm dịch “là chống hoặc bỏ chạy”/phản ứng stress cấp tính. Đây là một lý do mà chữ hãi (sợ hãi) được viết bằng bộ mã hợp với chữ Hợi (hãi) hài thanh 駭, sau này mở rộng nghĩa để chỉ trạng thái sợ hãi một cách tổng quát. Chữ kinh (kinh hãi) cũng viết bằng bộ mã 驚, sau này viết bằng bộ tâm 惊 (giản thể, cho rõ nghĩa hơn). Chữ kiêu (kiêu ngạo) cũng viết bằng bộ mã 驕 …
4) Các tài liệu cổ TQ ghi lại âm đắc/đức 淂 chỉ nước (nác) là chữ hiếm với tần số dùng là 161 trên 171894734; Ngọc Thiên ghi cách đọc 淂 là 淂勒切 đô lặc thiết (đắc) – 水也 thuỷ dã, so với 都則切 đô tắc thiết (QV), 的則切,音德 đích tắc thiết, âm đức (TV, LT), 多則切,音德 đa tắc thiết, âm đức (TVi, CTT), 丁力切,音滴 đinh lực thiết, âm tích/trích (QV). Đắc HV còn trở thành được trong tiếng Việt, tương ứng với quá trình (đák) nác trở thành nước. Trần Cương Trung (thế kỷ XIII) còn ghi âm nước là lược 掠 (Sứ Giao Châu tập). Nghĩa nguyên thuỷ nước (chất lỏng) của đắc/đức trong các tài liệu TQ sau này đã tiếp biến để trở thành ‘thuỷ mạo’ (óng ánh hay long lanh như mặt nước/QV/LT/TVi) hay ‘thuỷ danh’ (tên sông/TV) để người Hán có thể hiểu được! CTT còn ghi là không nên dùng tục tự này cho chữ đắc 得 (dị thể). Dạng nác (nước) còn được duy trì trong các tiếng địa phương VN như Quảng Trị, Quảng Bình, Nghệ An, Thanh Hoá (cd. khôn ăn nác, dại ăn xác) … So với dạng dak3 (Mường Bi, Nguồn), dak2 (Chứt), tik/tưk (Khme), dak (Môn, Rơngao, Sakai, Biat), đek/đak (Mnông), đaq (Tà Ôi, Chơro, Kơho) …v.v… Một số địa danh, sông ngòi cũng dùng *đak (nước) cho thấy rõ ràng âm này đến từ phương Nam (so sánh với giang – *krong/krung – sông). Đây là một đề tài rất thú vị nhưng không nằm trong phạm vi bài viết này.
Ngọc Thiên Long Kham Thủ Giám Quảng Vận
Ngọc Thiên Long Kham Thủ Giám Quảng Vận
5) Một dạng âm cổ phục nguyên của Ngọ là *zŋagx theo GS William G. Boltz (bài viết “The Old Chinese Terrestrial Rames in Saek” đăng trong cuốn “Studies in the Historical Phonology of Asian Languages” NXB John Benjamins, 1991). Dạng này có thể giải thích các dạng sa-nga (tiếng Lü) Một dạng âm cổ phục nguyên của Ngọ là *zŋagx theo GS William G. Boltz (bài viết “The Old Chinese Terrestrial Rames in Saek” đăng trong cuốn “Studies in the Historical Phonology of Asian Languages” NXB John Benjamins, 1991). Dạng này có thể giải thích các dạng sa-nga (tiếng Lu), shi-nga (tiếng Ahom)… Một dạng âm cổ phục nguyên của ngựa là *m-ŋɨa? (theo Michel Ferlus, 2004 – bài viết đã dẫn phần đầu); dạng phục nguyên này rất khó giải thích các âm sa3, sa4 của tiếng Dioi và Pu yi được Jerry Norman ghi nhận (bài viết “A note on the origin of the Chinese Đuoenary cycle” đăng trong cuốn “Linguistics of the Sino-Tibetan area – state of the art” Pacific Linguistics, Series C No. 87 – 1985).
12 con giáp gốc Việt
Xưa nay nhiều người vẫn lầm tưởng rằng 12 con giáp có xuất xứ từ Trung Hoa. Tuy nhiên, mới đây, trong một công trình nghiên cứu về ngôn ngữ Việt cổ – nhà nghiên cứu ngôn ngữ học Nguyễn Cung Thông phát hiện ra nguồn gốc 12 con giáp có xuất xứ từ Việt Nam.
Ngôn ngữ là “lá bùa” tổ tiên để lại
Theo văn hóa Phương Đông, lịch được xác lập theo chu kỳ thay đổi đều đặn của Mặt trăng. Do đó 12 con giáp ứng với 12 giờ trong ngày, 12 tháng trong năm, 12 năm trong một giáp – đó là những nền tảng quan trọng để tính lịch và là dấu hiệu để nhận đoán về số mệnh của từng người theo cung Hoàng Đạo.
Trong lịch sử, Việt Nam và Trung Hoa có một thời kỳ giao lưu văn hoá ít nhất 2000 năm. Những đợt giao lưu văn hóa cứ tiếp biến và chồng chất lên nhau khiến cho dấu hiệu nhận biết nét riêng của từng dân tộc rất khó khăn. Thêm vào đó, các tài liệu xưa không còn nhiều, nếu còn cũng chỉ trong kho thư tịch Hán cổ khiến cho việc nghiên cứu hết sức rắc rối và phức tạp. Chính điều này đã đốc thúc nhà nghiên cứu ngôn ngữ Nguyễn Cung Thông cố công đi tìm cho bằng được những bí ẩn ngôn ngữ của tổ tiên mà theo ông đó là những “lá bùa” con cháu cần tìm lời giải.
Ông Thông cho biết, ông bắt đầu việc nghiên cứu tiếng Việt của mình vào những năm đầu thập niên 1970 tại nước Australia. Trong một lần nghiên cứu về nguồn gốc 12 con giáp để lần tìm cội nguồn tiếng Việt ông đã phát hiện ra một số từ Việt cổ mà người Việt đã dùng để chỉ về 12 con giáp có nguồn gốc lâu đời trước khi 12 con giáp xuất hiện ở Trung Hoa. Vào những ngày cuối năm con trâu, tại Viện Việt học ở thành phố Westminster (California, Mỹ) ông đã có một buổi thuyết trình những khám phá thú vị của mình với chủ đề “Vết tích của tiếng Việt cổ trong tiếng Hán”.
“Tìm hiểu về gốc của tên mười hai con giáp là một cơ hội để ta tìm về cội nguồn tiếng Việt. Tên 12 con giáp là Tý/Tử, Sửu, Dần, Mão/Mẹo, Thìn/Thần, Tỵ, Ngọ, Mùi/Vị, Thân/Khôi, Dậu, Tuất, Hợi. Thoạt nhìn thì thập nhị chi trên có vẻ bắt nguồn từ Trung Quốc vì là những từ Hán Việt, nhưng khi phân tách các tiếng Việt, và thấy có những khác lạ, tôi đem so sánh trong hệ thống ngôn ngữ vay mượn thì sự thật không phải vậy” – ông Thông nói.
Theo ông Thông thì tên 12 con giáp nếu đọc theo tiếng Bắc Kinh và bằng cách ghi theo phiên âm (pinyin): zi, chou, yín, măo, chén, sì, wè, wèi, shèn, yòu, xù, hài… hoàn toàn không liên hệ đến cách gọi tên 12 con giáp trong tiếng Trung Quốc hiện nay. Ngay cả khi phục hồi âm Trung Quốc thời Thượng Cổ thì vẫn không tương đồng với các cách gọi tên thú vật thời trước. Như vậy nếu có một dân tộc nào đó dùng tên 12 con thú tương tự như tên 12 con giáp ngày nay thì dân tộc đó phải có liên hệ rất khăng khít với nguồn gốc tên 12 con giáp này.
Từ điều này, khởi đầu cho việc nghiên cứu ông đi tìm nguyên do vì sao trong 12 con giáp của Trung Quốc, con Mèo bị thay bởi Thỏ. “Người Trung Quốc dùng thỏ thay cho mèo (biểu tượng của chi Mão/Mẹo) vì trong văn hóa người Trung Quốc thỏ là một loài vật rất quan trọng và thường được ghi bằng chữ tượng hình là Thố, giọng Bắc Kinh, là từ viết bằng bộ nhân không có từ để chỉ mèo. Hầu như chỉ có dân Việt mới dùng mèo cho chi Mão: nguyên âm e hay iê là các dạng cổ hơn của a như kẻ/giả, vẽ/hoạ, xe/xa, khoe/khoa, hè/hạ, chè/trà, keo/giao, beo/báo… Vì thế mà mèo cũng là loài vật hiện diện trong đời sống dân Việt thường xuyên hơn” – ông Thông lý giải.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Cung Thông và vợ ở Viện Việt học
Thời tiền Hán, tiếng Việt không có nhiều thanh điệu như bây giờ, nên sự khác biệt về thanh điệu không có gì lạ. Trong khẩu ngữ người Việt có cách dùng “chờ một tý” hay “chờ một chút”, “đưa chút tiền”, “đưa tý tiền”… vào thời tiền Hán, các câu trên đọc như giọng Huế (ít thanh điệu hơn so với giọng Hà Nội) thì thấy chút hay chụt/chuột chính là các cách đọc của Tý sau này.
Vì sao Việt Nam không giữ được “thương hiệu”?
Thực tế, đã từng có nhiều công trình của nhiều tác giả cố gắng chứng minh văn hóa Trung Quốc có xuất phát từ văn hóa Việt Nam như tác giả Lê Mạnh Mát qua cuốn “Lịch sử âm nhạc Việt Nam – từ thời Hùng Vương đến thời kỳ Lý Nam Ðế” hay tác giả Nguyễn Thiếu Dũng với cuốn “Nguồn gốc Kinh Dịch”… Hầu hết các cuốn sách này đều cho thấy chiều vay mượn văn hóa là từ phương Nam vào thời thượng cổ, chứ không phải là từ Bắc xuống Nam (cũng như các nước chung quanh) vào các đời Hán, Ðường lúc văn hoá Trung Quốc cực thịnh. Tuy nhiên không tác giả nào đề cập đến nguồn gốc tên 12 con giáp, và rất ít dùng cấu trúc của chữ Hán, Hán cổ cùng các biến âm trong cách lý giải.
12 con giáp cổ
Theo ông Thông, ngoài hai chi Tý/Tử/chuột, Mão/ Mẹo/mèo là dễ nhận thấy nhất thì những chi còn lại khi so sánh trong tương quan ngữ âm, ngữ nghĩa cũng đều cho ra những kết quả khá bất ngờ.
Ví dụ với trường hợp của Thân là chi thứ 9 trong bản đồ Hoàng Đạo. Nếu xem cách viết chữ Thân bằng bộ điền với nét giữa dài hơn với cách viết chữ Khôn (một căn bản của Kinh Dịch có từ thời Thượng cổ) thì ta thấy bộ thổ hợp với chữ Thân hài thanh. Đây là liên hệ trực tiếp giữa Thân và Khôn, tuy nhiên tiếng Việt cổ có chữ khọn là con khỉ (người Huế hay người xứ Nghệ hiện nay một số chỗ vẫn còn những câu cửa miệng “tuồng mặt con khọn” để ám chỉ những người vô tích sự, chẳng làm chẳng nên trò trống gì). Thành ra, Thân chính là khỉ, tiếng Việt cổ dù biến âm th-kh rất hiếm gặp trong tiếng Việt ngày nay nhưng nó vẫn còn dấu tích của những từ cặp đôi như: thân- cận- gần, thận- cẩn (thận trọng, cẩn trọng).
Tương tự với trường hợp của con Rồng. Xưa nay nhiều người vẫn cho rằng rồng là một con vật tiêu biểu cho vương quyền của phương Bắc và sau đó nó được chọn làm một trong 12 con vật có mặt trong 12 con giáp của cung Hoàng Đạo. Nhưng ít ai biết được rằng rồng thực sự là con vật chủ của người Việt cổ và ngày xưa người Việt đã có những từ ngữ riêng để nói đến rồng hay thìn. Thìn/Thần dấu tích còn lại trong giọng Bắc Kinh hiện nay chỉ còn chén – âm này có thể tương ứng với các âm trần, trầm, thần của Hán Việt. Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Nguyễn Cung Thông thì nếu phục hồi âm cổ của Thìn/Thần là tlan (Tiếng Việt cổ – âm r chuyển thành l) và trăn, lươn (âm ts – mất đi), rắn, trình (loài cá giống con lươn), rồng/long (nguyên âm o thay cho a như nôm/nam, vốn/bản…) và khuynh hướng đơn âm hoá để cho ra các dạng từ ghép như tlăn – thằn lằn, tlian – thuồng luồng… cho thấy vết tích của rồng trong các ngôn ngữ phương Nam.
Lý giải về nguyên nhân dẫn đến việc bị “lẫn lộn” về nguồn gốc 12 con giáp, ông Thông cho rằng “Với ảnh hưởng quan trọng của nền văn hoá Trung Quốc, từ đời Hán và sau đó là Đường, Tống… với sức ép của giai cấp thống trị từ phương Bắc tên 12 con vật tổ đã từ từ được thay thế bằng hình ảnh con người, mang nặng màu sắc văn hoá Trung Hoa hơn. Từ tính chất cụ thể của các loài vật láng giềng, 12 con giáp đã trở nên trừu tượng và còn ảnh hưởng đến vận mạng con người nữa (bói toán). Tuy nhiên, cái vỏ hào nhoáng của chữ Hán, Hán Việt không thể thay đổi được nền văn hoá bình dân (khẩu ngữ) trong đời sống người Việt”
Sự phát hiện mới mẻ này đã chứng minh cho sự phát triển của người Việt xưa trong cách tính lịch và làm nên một nền văn minh lúa nước rực rỡ ở phía Nam Đông Nam Á.
Hà Tùng Long
GiadinhNet
GiadinhNet
No comments:
Post a Comment