Tôi viết đôi dòng không phải để quảng cáo cho tập tạp ghi “Những Người Thua Trận”, hay tập thơ “Chúc Thư” của ông, tôi không ghi địa chỉ hay số phôn để đọc giả liên lạc, nhưng để cám ơn ông. Ông đã dùng thơ để nhắc tôi, nhắc “chúng sinh” vẫn ăn, vẫn ngủ và vẫn thở hãy nhớ đến những món nợ đối với thuộc cấp, đồng đội còn ở lại.
Họ ở lại và đã nằm yên tại Đông Hà, Quảng Trị, “pháp trường cát” Thuận An, Bình Long Anh Dũng, Kontum Kiêu Hùng:
Họ ở lại và đã nằm yên tại Đông Hà, Quảng Trị, “pháp trường cát” Thuận An, Bình Long Anh Dũng, Kontum Kiêu Hùng:
Anh nằm lại trên đất quê hương.
Anh nằm lại đây cùng chiến hữu
Đã cùng anh chiến trận bao ngày...
Họ đã ở lại và đang lê lết cuộc đời giữa chợ...đời:
Nợ người phế binh lê la kiếm sống
Anh nằm lại đây cùng chiến hữu
Đã cùng anh chiến trận bao ngày...
Họ đã ở lại và đang lê lết cuộc đời giữa chợ...đời:
Nợ người phế binh lê la kiếm sống
***
“HUY PHƯONG”.
Từ nay tôi sẽ gọi anh Huy Phương như thế mà không cần thêm 2 chữ “nhà văn” nữa. Theo tôi, gọi anh như thế là đủ, vì nếu có “nhà văn” thì phải có “nhà thơ” hay “thi sĩ, thi bá” mới công bằng sau khi tôi đọc bài thơ: “Chúc Thư” trong tập thơ mang tên:
“CHÚC THƯ CỦA MỘT NGƯỜI LÍNH CHẾT GIÀ”.
Từ nay tôi sẽ gọi anh Huy Phương như thế mà không cần thêm 2 chữ “nhà văn” nữa. Theo tôi, gọi anh như thế là đủ, vì nếu có “nhà văn” thì phải có “nhà thơ” hay “thi sĩ, thi bá” mới công bằng sau khi tôi đọc bài thơ: “Chúc Thư” trong tập thơ mang tên:
“CHÚC THƯ CỦA MỘT NGƯỜI LÍNH CHẾT GIÀ”.
Chiều qua, Thứ Sáu 13, sau khi đi “khám bác sĩ” về, tôi buồn vì bác sĩ phán đúng vào ngày “xui” cái tin không vui: “bác không nên ngồi computer nữa”!
Lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ nên tôi ngồi bệt xuống thềm cửa thở dài, bỗng trông thấy trong chồng thơ cùng đủ thứ giấy quảng cáo mà mailman bỏ ngoài cửa, một bì thơ màu vàng dầy cộm, tôi biết đây là tập san Đa Hiệu hay BĐQ mà tôi thường gửi bài nên vội cầm lấy xem, hy vọng có bài mình được đăng trong đó, đang lúc buồn mà đọc bài mình viết được đăng báo thì thì đỡ khổ, “văn mình, vợ người” mà.
Nhưng không phải ĐH hay BĐQ mà ngừơi gửi là Huy Phương, tôi quá đỗi ngạc nhiên, đây là lần đầu tiên được một nhà văn nổi tiếng gửi tặng sách, mà sách của nhà văn Huy Phương là tạp ghi, là loại viết tôi thích nhất.
Mở bao thư ra, ngoài tập tạp ghi “NHỮNG NGƯỜI THUA TRẬN” còn có tập thơ nữa. Tôi thầm nghĩ ông nhà văn này “chuyên trị” tạp ghi, sao lại làm thơ nữa! Mà thơ gì đây?
“Chúc Thư Của Một Người Lính Chết Già”
“Chết cha”! Tôi thầm kêu lên như thế. Ngày xui Thứ Sáu Mừơi Ba, bác sĩ phán mình có bệnh, rồi bây giờ bỗng dưng nhận được quà từ trên trời rơi xuống “chúc thư... lính chết già”? Cái gì nữa đây? Điềm gì đây? Bỗng dưng niềm tin dị đoan, mà không bao giờ tôi tin, từ đâu ào-ào kéo tới! Tôi là lính già..chết!
Phải nói thực lòng là tôi không có khả năng thưởng thức thơ bằng đọc Tạp Ghi, thích đọc thư tình còn thơ tình thì không, có chăng là đọc thư đấu tranh của các thi sĩ Phạm Kim Khôi, Trạch Gầm, Võ Đông Giang, nhưng là lính già mà cầm trong tay “Chúc Thư Của Ngừơi Lính Chết Già” thì nguy hiểm quá, phải đọc để biết có gì còn xin “giải hạn” chứ. Chết già? Xưa “thất thập cổ lai hy”, nay thì thất thập còn sống dai, nói dài là chuyên bình thừơng, tôi không thể...
***
Tôi là người lính già ở xa tổ quốc
Xa chiến trường lưu lạc tới đây
............
Ngày tôi bỏ đi, bạn bè đồng đội
Vẫn hiên ngang cho tới phút cuối cùng.
***
Tôi là người lính già ở xa tổ quốc
Xa chiến trường lưu lạc tới đây
............
Ngày tôi bỏ đi, bạn bè đồng đội
Vẫn hiên ngang cho tới phút cuối cùng.
À ra thế, “tôi” đây không phải là tôi, vì tôi đâu có bỏ đồng đội, tôi ở bên anh em cho tới sau khi “Tổng Tư Lệnh” Dương Văn Minh ra lệnh bẻ súng mà. Vậy thì an tâm rồi, tôi không là lính chết già thì đọc tiếp xem tác giả nói về ai? Cái gì? Ở đâu? Khi nào? Tại sao?
Hãy quên tôi, người lính già lưu lạc
Đừng phủ lá cờ tổ quốc cho tôi
Đừng phủ lá cờ tổ quốc cho tôi
Nhột quá chừng! Tác giả khiêm nhường xin đừng phủ quốc kỳ khi “tôi” ra đi.
Tôi đồng ý với tác giả, “da ngựa bọc thây, quốc kỳ gói xác” chỉ dành cho những anh hùng vị quốc vong thân. Vấn đề “phủ cờ” ở hải ngoại này đã một thời tốn giấy mực, cái lý đúng là KHÔNG, nhưng QLVNCH còn có cái tình, ngừơi lính, dù chết trẻ hay chết già đều không cần bất cứ thứ gì, phủ cờ hay không, ngàn vong hoa hay không cũng như nhau, nhưng ngừơi lính già xa quê hương, tỵ nạn CS, khi chết già mà được phủ quốc kỳ cũng là niềm an ủi cho ngừơi ở lại: “chồng, cha, ông nội ngoại chúng tôi khi xưa là lính, khi chết vẫn là ngừoi tỵ nạn CS, là chống Cộng”. Cái tình là ở chỗ đó thưa tác giả. Có thể ông cũng đồng ý với tôi là Quốc Kỳ luôn mở rộng, trừ những kẻ muốn từ chối chào Quốc Kỳ, tác giả muốn nói đến ai kia, đã trốn quê hương mà lại cứ chuồn về chốn cũ để tiêu khiển, để làm những con trâu già ham gặm cỏ non chăng?
Câu tôi mê nhất là:
Tôi đồng ý với tác giả, “da ngựa bọc thây, quốc kỳ gói xác” chỉ dành cho những anh hùng vị quốc vong thân. Vấn đề “phủ cờ” ở hải ngoại này đã một thời tốn giấy mực, cái lý đúng là KHÔNG, nhưng QLVNCH còn có cái tình, ngừơi lính, dù chết trẻ hay chết già đều không cần bất cứ thứ gì, phủ cờ hay không, ngàn vong hoa hay không cũng như nhau, nhưng ngừơi lính già xa quê hương, tỵ nạn CS, khi chết già mà được phủ quốc kỳ cũng là niềm an ủi cho ngừơi ở lại: “chồng, cha, ông nội ngoại chúng tôi khi xưa là lính, khi chết vẫn là ngừoi tỵ nạn CS, là chống Cộng”. Cái tình là ở chỗ đó thưa tác giả. Có thể ông cũng đồng ý với tôi là Quốc Kỳ luôn mở rộng, trừ những kẻ muốn từ chối chào Quốc Kỳ, tác giả muốn nói đến ai kia, đã trốn quê hương mà lại cứ chuồn về chốn cũ để tiêu khiển, để làm những con trâu già ham gặm cỏ non chăng?
Câu tôi mê nhất là:
Anh em tôi trong những giờ tuyệt lộ
Nằm lại bờ lúc chiến hạm ra khơi
Nằm lại bờ lúc chiến hạm ra khơi
Đọc 2 câu thơ này tôi nhớ lại đã có lần, trên SBTN, tác giả hỏi khó tôi về tình hình của LĐ147/TQLC tại “pháp trường cát Thuận An” rằng nếu lúc đó, Đ/Tá LĐT có mặt tại chỗ, tại bờ biển thì tình hình liệu thay đổi chăng?
Xin thưa, Đ/Tá LĐT/LĐ147 bị thương nên phải tải thương, mà cho dù có mặt ông LĐT, hay cả ông Tư Lệnh Binh Chủng TQLC đi nữa thì tình hình vẫn không thay đổi, vì các ông là cấp chỉ huy BB, không có quyền chỉ huy hay điều động tàu thuyền HQ, đó là nhiệm vụ và quyền hạn của ai kia. Lính không phải là cá, dù nằm bên mép nước nên anh em tôi đành phải:
Nằm lại bờ lúc chiến hạm ra khơi.
Cám ơn tác giả, chỉ có 2 câu thơ gồm 16 chữ mà đã diễn tả được niềm đau, không chỉ anh em TQLC ở bãi biển Thuận An mà tác giả còn nói thay cho nhiều đơn vị khác nữa, ở khắp các bãi biển, hải cảng, phi cảng. Ai đã từng nằm lại trong giờ tuyệt lộ nhìn chiến hạm ra khơi, ngước lên trời ngắm chim sắt rời phi đạo thì cũng nên ngâm nga 2 câu thơ trên cho đời bớt sầu. Buồn mà khóc được thì nứoc mắt mới vơi đi. Nếu đọc hết 40 câu trong bài “Chúc Thơ” thì tôi tin rằng những ai là người nằm lại sẽ vỗ đùi cái “đét”, hét lên:
_ “Tuyệt, lão Huy Phương đã nói hộ điều mà 38 năm nay muốn nói mà nói không ra”.
Tôi không biết thể thơ mà tác giả dùng, nhưng nội dung chỉ một bài “chúc thư” cũng đủ làm tôi quên cái ngày xúi quẩy Thứ Sáu 13 hiện tại mà quay về với quá khứ, dù quá khứ đau thương nhưng vẫn muốn nhắc đến hơn là nghĩ đến già nua bịnh hoạn.
Dưới tựa bài thơ: “GỬI NGƯỜI ĐÃ CHẾT”
(tưởng niệm những nấm mồ trên bờ biển An Dương):
.......
Tháng ba, ngày tan hàng gãy súng
Trước mặt anh, biển cả muôn trùng
Sau lưng anh, quân thù đạn pháo
Ngang nhiên nhận cái chết sau cùng.
........
_ “Tuyệt, lão Huy Phương đã nói hộ điều mà 38 năm nay muốn nói mà nói không ra”.
Tôi không biết thể thơ mà tác giả dùng, nhưng nội dung chỉ một bài “chúc thư” cũng đủ làm tôi quên cái ngày xúi quẩy Thứ Sáu 13 hiện tại mà quay về với quá khứ, dù quá khứ đau thương nhưng vẫn muốn nhắc đến hơn là nghĩ đến già nua bịnh hoạn.
Dưới tựa bài thơ: “GỬI NGƯỜI ĐÃ CHẾT”
(tưởng niệm những nấm mồ trên bờ biển An Dương):
.......
Tháng ba, ngày tan hàng gãy súng
Trước mặt anh, biển cả muôn trùng
Sau lưng anh, quân thù đạn pháo
Ngang nhiên nhận cái chết sau cùng.
........
Thưa tác giả Huy Phương.
Sau 30/4/75, đồng bào thôn An Dương, Thuận An, Huế đã nhặt được 132 bộ xưong phơi trên cát, lấp ló, lững lờ mép nứơc rồi đem mai táng tập trung lại một khu với mộ bia đề:
Sau 30/4/75, đồng bào thôn An Dương, Thuận An, Huế đã nhặt được 132 bộ xưong phơi trên cát, lấp ló, lững lờ mép nứơc rồi đem mai táng tập trung lại một khu với mộ bia đề:
“Thập Loại Cô Hồn Hiển Hách Chi Mộ”.
Đồng bào biết những xương trắng đó là của ai, anh em TQLC chúng tôi biết xương đó là ai, của ai nằm lại bờ nhìn chiến hạm ra khơi! Cho nên, năm 2012 đã cử ngừơi về tổ chức trai đàn cầu siêu cho đồng đội, nhưng rất tiếc là chế độ XHCN với “lòng khoan hồng nhân đạo” đã không cho phép! Nay tác giả dùng lời thơ gửi người đã chết như những nén nhang...
Những lời thơ thấm thía tự đáy lòng, ai có thân nhân nẳm lại, không chỉ ở thôn An Dương mà ở khắp mọi miền đất nứơc cũng cảm thấy hài lòng và nên đọc bài thơ này. Riêng tôi thì xin thay mặt gia đình, xin cám ơn tác giả, bởi vì trong những nấm mồ trên bờ biển An Dương có thể có bộ xương của em tôi: Đại Úy Tô Thanh Chiêu TĐ4/TQLC Kình Ngư.
Vào 5 giờ chiều ngày 25/3/75, tại bãi biển Thuận An, khi tàu không vào được để há mồm hớp TQLC thì Thiếu Tá Nguyễn Trí Nam TĐP/TĐ4 và Đại Úy Tô Thanh Chiêu ĐĐT/TĐ4 buộc phải trải quân phòng thủ đêm vì “sau lưng các anh, quân thù và đạn pháo” và rồi cả Nam lẫn Chiêu đều đã hy sinh và Chiêu nằm lại bờ (nhìn chiến hạm ra khơi). Trong khi đi lựơm những bộ xương thì đồng bào thôn An Dương cũng lựơm được một thẻ bài mang tên Tô Thanh Chiêu.
Khi Chiêu tử trận thì con gái còn nằm trong bụng mẹ và hiện nay cháu là một luật sư người Mỹ gốc Việt, đã nhiều lần cháu hỏi tôi về bố Chiêu. Nay đã biết tung tích bố Chiêu, bố Chiêu đã cùng đồng đội nằm lại bờ thì xin tiếp tục để bố Chiêu sát cánh cùng đồng đội tại thôn An Dương, Thuận An, Huế với bia đề: “ Cô Hồn Hiển Hách Chi Mộ”
Tác giả Huy Phương không biết Tô Thanh Chiêu, con gái Chiêu chưa hề biết bài thơ “Gửi Người Đã Chết”, nhưng như có tình thiêng liêng giữa người đã hy sinh và ngừơi ở lại có tấm lòng nên cả tác giả và cô nhi cùng một ý nghĩ, anh Huy Phương đã viết:
Phút cuối cùng nằm lại bên nhau
Sống chiến đấu, chết cùng huyệt mộ.
........
Tôi người lính già còn sống sót
Một vần thơ thay nén nhang khuya
Sống chiến đấu, chết cùng huyệt mộ.
........
Tôi người lính già còn sống sót
Một vần thơ thay nén nhang khuya
Một vần thơ thay nén nhang khuya cho người đã khuất, nhưng những người ở lại khi “chúng ta” trốn đi thì họ làm gì?
Người chiến binh vẫn nằm bên ụ súng
Tạc đạn cuối cùng đành nổ trong tay.
.............
Khi những vì sao mọc trên cổ áo
Có bao giờ anh tự hỏi vì sao
Tạc đạn cuối cùng đành nổ trong tay.
.............
Khi những vì sao mọc trên cổ áo
Có bao giờ anh tự hỏi vì sao
Tạc đạn nổ trong tay mà họ không chết thì thành THƯƠNG PHẾ BINH, thương binh đã đau rồi, còn thêm chữ PHẾ chi nữa cho tủi lòng nhau, vì thế tác giả thì thầm trong bài thơ “Món Nợ Lương Tâm”:
Nợ người phế binh lê la kiếm sống.
Nợ thì phải trả, nhưng ngừơi “chủ nợ” không đòi thì “con nợ” phải trả bằng cách nào?
_ Hãy “sống sao cho ra cái kiếp người”.
_ Hãy “sống sao cho ra cái kiếp người”.
Tập thơ với 35 bài thơ, tác giả đã nói với chính mình mà nghe như ông nói dùm tôi, nói với chúng ta và kết thúc tập thơ bằng lời khuyên con ông, con tôi, con những người lính già:
Gởi Con Yêu Dấu* (* phỏng dịch từ bài thơ “To Our Dear Child”.
Tôi không biết làm thơ, không thích thơ, nhưng tập thơ:
“Chúc Thư Của Một Người Lính Chết Già”
Đã khiến lính già tôi hạnh phúc với hiện tại, chưa chết già thì vẫn còn bổn phận với đồng đội bên kia thế giới và anh em TPB bên kia đại dương.
Gởi Con Yêu Dấu* (* phỏng dịch từ bài thơ “To Our Dear Child”.
Tôi không biết làm thơ, không thích thơ, nhưng tập thơ:
“Chúc Thư Của Một Người Lính Chết Già”
Đã khiến lính già tôi hạnh phúc với hiện tại, chưa chết già thì vẫn còn bổn phận với đồng đội bên kia thế giới và anh em TPB bên kia đại dương.
Cám ơn nhà văn, nhà thơ Huy Phương.
Tôi viết đôi dòng không phải để quảng cáo cho tập tạp ghi “Những Người Thua Trận”, hay tập thơ “Chúc Thư” của ông, tôi không ghi địa chỉ hay số phôn để đọc giả liên lạc, nhưng để cám ơn ông. Ông đã dùng thơ để nhắc tôi, nhắc “chúng sinh” vẫn ăn, vẫn ngủ và vẫn thở hãy nhớ đến những món nợ đối với thuộc cấp, đồng đội còn ở lại.
Tôi viết đôi dòng không phải để quảng cáo cho tập tạp ghi “Những Người Thua Trận”, hay tập thơ “Chúc Thư” của ông, tôi không ghi địa chỉ hay số phôn để đọc giả liên lạc, nhưng để cám ơn ông. Ông đã dùng thơ để nhắc tôi, nhắc “chúng sinh” vẫn ăn, vẫn ngủ và vẫn thở hãy nhớ đến những món nợ đối với thuộc cấp, đồng đội còn ở lại.
Họ ở lại và đã nằm yên tại Đông Hà, Quảng Trị, “pháp trường cát” Thuận An, Bình Long Anh Dũng, Kontum Kiêu Hùng:
Anh nằm lại trên đất quê hương.
Anh nằm lại đây cùng chiến hữu
Đã cùng anh chiến trận bao ngày...
Họ đã ở lại và đang lê lết cuộc đời giữa chợ...đời:
Nợ người phế binh lê la kiếm sống
Anh nằm lại đây cùng chiến hữu
Đã cùng anh chiến trận bao ngày...
Họ đã ở lại và đang lê lết cuộc đời giữa chợ...đời:
Nợ người phế binh lê la kiếm sống
Cap To
lecaliboy@aol.com
lecaliboy@aol.com
No comments:
Post a Comment