Tổng Thống Đầu Tiên của Hoa Kỳ: George Washington (1732 – 1799) Người Cha Của Đất Nước Hoa Kỳ
Phạm Văn Tuấn
July 27, 20130 Bình Luận
July 27, 20130 Bình Luận
Trên đất nước Hoa Kỳ, không một người Mỹ nào được vinh danh hơn ông George Washington. Thủ Đô của quốc gia Hoa Kỳ được đặt bằng tên của ông — Washington, D.C.; đài kỷ niệm Washington vươn lên chót vót, cao hơn tất cả các công trình kiến trúc trong toàn vùng. Trong 50 tiểu bang của đất nước Hoa Kỳ, duy nhất có một tiểu bang được mang tên một vị Tổng Thống: tiểu bang Washington ở miền Tây Bắc. Danh tiếng của ông George Washington còn được dùng tại rất nhiều thành phố, công viên, hồ nước, cầu lớn, đại lộ, trường học… và hình ảnh của ông Washington được in lên trên tờ giấy bạc một Mỹ kim, trên tiền kim loại 25 xu và trên các con tem Bưu Điện.
Ông George Washington là “Người Cha của Đất Nước Hoa Kỳ” và trong mọi trái tim của người Mỹ luôn luôn ghi khắc hình ảnh của vị khai sáng ra một quốc gia mới, một xứ sở thịnh vượng và hùng mạnh. Ông George Washington đã đóng góp rất nhiều bằng 3 công lao: ông đã chỉ huy quân đội lục địa để chống lại người Anh, giành lấy Độc Lập trong cuộc chiến tranh Cách Mạng, ông cũng là chủ tịch của Ủy Ban soạn thảo ra Bản Hiến Pháp và cuối cùng, ông đã được bầu làm vị Tổng Thống đầu tiên của xứ Hoa Kỳ, đã điều khiển quốc gia non trẻ này trong thời kỳ lập quốc khó khăn. Vì thế, tên họ của ông đã là những từ ngữ tượng trưng cho niềm danh dự, lòng trung thành và tình yêu đất nước.
1. Giòng họ Washington
Ông cụ thân sinh ra ông nội của George Washington là John Washington (1632-1677), đã từ nước Anh tới châu Mỹ trên một con tầu nhỏ, lên bờ tại vùng sông Potomac vào năm 1656 hoặc 1657. Trong khi con tầu đang được sửa chữa, ông John quyết định ở lại miền Bắc Mỹ, lập gia đình và định cư tại xứ Virginia ngày nay. Sau 20 năm làm việc gồm khai khẩn đất hoang, buôn bán và lãnh đạo binh đội, ông John đã mua được hơn 2,000 hecta đất thuộc hạt Westmoreland và cả vùng đất mà sau này được gọi là Mount Vernon. Người con trai lớn của ông John tên là Lawrence Washington (1659-1698) là ông nội của George Washington. Không có tài liệu ghi chép về ông cụ Lawrence nhưng một người con trai nhỏ nhất của ông cụ này tên là Augustine Washington (1694-1743) là một người nhiều nghị lực, đã tham gia vào nhiều phạm vi hoạt động như canh nông, thương mại, hầm mỏ và khai khẩn đất rừng nhờ đó, vùng đất sở hữu của gia đình Washington đã được mở rộng như một bán đảo, giữa hai miền Popes Creek và Bridges Creek.
Ông Augustine Washington có 4 người con với bà vợ trước tên là Jane Butler nhưng hai người con chết sớm, rồi vì bà vợ này mất vào năm 1729 nên ông đã cưới bà Mary Ball (1709-1789), người đã sinh ra ông George Washington. Cha của bà Mary Ball là Đại Tá William Ball, đã tới định cư tại Virginia vào khoảng năm 1650. Bà Ball bị mồ côi cha mẹ năm 13 tuổi nên đã thừa hưởng 400 mẫu đất của vùng này, một số nữ trang, nhà cửa, gia súc và một số nô lệ.
George Washington là con trai lớn của ông Augustine và bà Mary Ball, sinh ngày 22 tháng 2 năm 1732 (theo lịch thời đó là ngày 11 tháng 2), tại đồn điền Bridges Creek mà sau này được gọi là Wakefield. George Washington còn có 5 anh chị em cùng mẹ là Elizabeth, Samuel, John Austine, Charles và Midred và hai người anh khác mẹ là Lawrence và Augustine, lớn hơn 14 và 12 tuổi nhưng cả ba anh em này rất hòa thuận và giúp đỡ lẫn nhau.
Ông cụ thân sinh ra ông nội của George Washington là John Washington (1632-1677), đã từ nước Anh tới châu Mỹ trên một con tầu nhỏ, lên bờ tại vùng sông Potomac vào năm 1656 hoặc 1657. Trong khi con tầu đang được sửa chữa, ông John quyết định ở lại miền Bắc Mỹ, lập gia đình và định cư tại xứ Virginia ngày nay. Sau 20 năm làm việc gồm khai khẩn đất hoang, buôn bán và lãnh đạo binh đội, ông John đã mua được hơn 2,000 hecta đất thuộc hạt Westmoreland và cả vùng đất mà sau này được gọi là Mount Vernon. Người con trai lớn của ông John tên là Lawrence Washington (1659-1698) là ông nội của George Washington. Không có tài liệu ghi chép về ông cụ Lawrence nhưng một người con trai nhỏ nhất của ông cụ này tên là Augustine Washington (1694-1743) là một người nhiều nghị lực, đã tham gia vào nhiều phạm vi hoạt động như canh nông, thương mại, hầm mỏ và khai khẩn đất rừng nhờ đó, vùng đất sở hữu của gia đình Washington đã được mở rộng như một bán đảo, giữa hai miền Popes Creek và Bridges Creek.
Ông Augustine Washington có 4 người con với bà vợ trước tên là Jane Butler nhưng hai người con chết sớm, rồi vì bà vợ này mất vào năm 1729 nên ông đã cưới bà Mary Ball (1709-1789), người đã sinh ra ông George Washington. Cha của bà Mary Ball là Đại Tá William Ball, đã tới định cư tại Virginia vào khoảng năm 1650. Bà Ball bị mồ côi cha mẹ năm 13 tuổi nên đã thừa hưởng 400 mẫu đất của vùng này, một số nữ trang, nhà cửa, gia súc và một số nô lệ.
George Washington là con trai lớn của ông Augustine và bà Mary Ball, sinh ngày 22 tháng 2 năm 1732 (theo lịch thời đó là ngày 11 tháng 2), tại đồn điền Bridges Creek mà sau này được gọi là Wakefield. George Washington còn có 5 anh chị em cùng mẹ là Elizabeth, Samuel, John Austine, Charles và Midred và hai người anh khác mẹ là Lawrence và Augustine, lớn hơn 14 và 12 tuổi nhưng cả ba anh em này rất hòa thuận và giúp đỡ lẫn nhau.
2. Tuổi trẻ của George Washington
Khi George lên 3 tuổi, gia đình dọn về một đồn điền rộng lớn hơn, tọa lạc tại phía bắc giòng sông Potomac với tên gọi là Epsewasson hay Little Hunting Creek. Vào năm 1738, ông Augustine lại mua thêm nông trại Ferry Farm hay River Farm tại Rappahannock, đối diện với Fredericksburg và mang cả gia đình về nơi đây cư ngụ. George Washington lớn lên trong khung cảnh miền rừng đồi vắng vẻ này. Có lẽ tại Fredericksburg, George Washington đã đi học. Không còn tài liệu nào ghi chép ai đã là các vị thầy cô giáo của miền này. George Washington đã theo học khoảng 7 hay 8 năm, và môn học ưa thích nhất của George là Số Học. Ngoài ra George còn học thêm về môn lịch sử và địa dư nhưng thiếu hiểu biết về văn chương, ngoại ngữ, và George Washington không hiểu biết nhiều lịch sử như Thomas Jefferson hay James Madison.
Năm George Washington lên 11 tuổi, người cha qua đời. Miền đất Epsewasson được giao cho người anh cùng cha khác mẹ là Lawrence. Vùng Wakefield, nơi George đã chào đời, thuộc về người anh Augustine. Lawrence cưới cô Anne Fairfax là một thiếu nữ rất giàu có nên đã thừa hưởng một miền đất rộng lớn, được sát nhập với khu cư ngụ Epsewasson và gọi bằng tên Mount Vernon, để tưởng nhớ tới Đô Đốc Vernon là người đã phục vụ tại vùng biển Tây Ấn (West Indies).
George Washington sống với mẹ và lớn lên tại Ferry Farm. Nơi này là một đồn điền với 20 nô lệ, trồng thuốc lá, trái cây, ngũ cốc và rau tươi. Chính tại nơi đây George đã học cách câu cá, chèo thuyền, săn bắn và giúp công vào việc chặt cây, bửa củi. Đời sống tại vùng thuộc địa Bắc Mỹ có tính cách khai phá, đòi hỏi sự kiên nhẫn và sức mạnh, đã khiến cho George có được các đức tính tốt.
George Washington rất kính phục người anh cùng cha khác mẹ tên là Lawrence. Người anh này được giáo dục tại nước Anh và đã xuống Nam Mỹ phục vụ với cấp bậc Đại Úy trong cuộc chiến tranh giữa nước Anh và nước Tây Ban Nha. Anh Lawrence tuy không tham chiến nhưng đã trở về Virginia, kể cho George nghe nhiều câu chuyện chiến đấu, làm tăng thêm trí tưởng tượng của George. Đây cũng là lý do tại sao George thường tới thăm anh Lawrence tại căn nhà mới xây cất nơi vùng Mount Vermon. Anh Lawrence có ý định để George tham gia Hải Quân Hoàng Gia Anh nhưng bà mẹ không muốn xa con. Do giỏi về Toán Học, George Washington học nghề đo đất và đã vẽ được các bản đồ trong vùng.
Năm 1748, George tới sống với anh Lawrence tại Mount Vernon và nhờ đó, đã làm quen được với một số người danh tiếng địa phương, trong đó có Lord Fairfax, một người bà con của chị Lawrence và là chủ nhân của 5 triệu sào đất thuộc Virginia. Lord Fairfax đã nhờ George đo đạc các miền đất ở bên ngoài rặng núi Blue Ridge, một công việc vừa cực nhọc, vừa nguy hiểm nhưng George đã làm xong trong hơn một năm. Sau đó, cũng do ảnh hưởng của Lord Fairfax, George được bổ nhiệm làm nhân viên đo đạc của hạt Culpeper, một công vụ đầu tiên. George Washington nhận chức vụ ngày 20/7/1749. Ngoài việc đo đất, George Washington với dáng người cao lớn, to mập, đã sống như một thanh niên trưởng giả nông thôn.
Năm 1751, anh Lawrence bị bệnh nặng nên muốn cùng với George đi tới Barbados là miền nắng ấm thuộc vùng Trung Mỹ. Hai anh em đã ra đi và tại miền nhiệt đới này, George bị bệnh đậu mùa khiến cho sau này còn mang vài vết sẹo trên mặt. George Washington trở lại Virginia lúc 20 tuổi và đã gặp cô Betsy Fauntleroy, con gái của một chủ đồn điền và chủ tầu giàu có, nhưng mối tình đầu của George đã bị cự tuyệt. Tháng 6 năm 1752, anh Lawrence trở về Bắc Mỹ rồi chết vì bệnh lao phổi, để lại miền Vernon cho vợ và cũng đã dành cho George một phần đất tại thung lũng Shenandoah cùng với ba người anh em khác.
Khi George lên 3 tuổi, gia đình dọn về một đồn điền rộng lớn hơn, tọa lạc tại phía bắc giòng sông Potomac với tên gọi là Epsewasson hay Little Hunting Creek. Vào năm 1738, ông Augustine lại mua thêm nông trại Ferry Farm hay River Farm tại Rappahannock, đối diện với Fredericksburg và mang cả gia đình về nơi đây cư ngụ. George Washington lớn lên trong khung cảnh miền rừng đồi vắng vẻ này. Có lẽ tại Fredericksburg, George Washington đã đi học. Không còn tài liệu nào ghi chép ai đã là các vị thầy cô giáo của miền này. George Washington đã theo học khoảng 7 hay 8 năm, và môn học ưa thích nhất của George là Số Học. Ngoài ra George còn học thêm về môn lịch sử và địa dư nhưng thiếu hiểu biết về văn chương, ngoại ngữ, và George Washington không hiểu biết nhiều lịch sử như Thomas Jefferson hay James Madison.
Năm George Washington lên 11 tuổi, người cha qua đời. Miền đất Epsewasson được giao cho người anh cùng cha khác mẹ là Lawrence. Vùng Wakefield, nơi George đã chào đời, thuộc về người anh Augustine. Lawrence cưới cô Anne Fairfax là một thiếu nữ rất giàu có nên đã thừa hưởng một miền đất rộng lớn, được sát nhập với khu cư ngụ Epsewasson và gọi bằng tên Mount Vernon, để tưởng nhớ tới Đô Đốc Vernon là người đã phục vụ tại vùng biển Tây Ấn (West Indies).
George Washington sống với mẹ và lớn lên tại Ferry Farm. Nơi này là một đồn điền với 20 nô lệ, trồng thuốc lá, trái cây, ngũ cốc và rau tươi. Chính tại nơi đây George đã học cách câu cá, chèo thuyền, săn bắn và giúp công vào việc chặt cây, bửa củi. Đời sống tại vùng thuộc địa Bắc Mỹ có tính cách khai phá, đòi hỏi sự kiên nhẫn và sức mạnh, đã khiến cho George có được các đức tính tốt.
George Washington rất kính phục người anh cùng cha khác mẹ tên là Lawrence. Người anh này được giáo dục tại nước Anh và đã xuống Nam Mỹ phục vụ với cấp bậc Đại Úy trong cuộc chiến tranh giữa nước Anh và nước Tây Ban Nha. Anh Lawrence tuy không tham chiến nhưng đã trở về Virginia, kể cho George nghe nhiều câu chuyện chiến đấu, làm tăng thêm trí tưởng tượng của George. Đây cũng là lý do tại sao George thường tới thăm anh Lawrence tại căn nhà mới xây cất nơi vùng Mount Vermon. Anh Lawrence có ý định để George tham gia Hải Quân Hoàng Gia Anh nhưng bà mẹ không muốn xa con. Do giỏi về Toán Học, George Washington học nghề đo đất và đã vẽ được các bản đồ trong vùng.
Năm 1748, George tới sống với anh Lawrence tại Mount Vernon và nhờ đó, đã làm quen được với một số người danh tiếng địa phương, trong đó có Lord Fairfax, một người bà con của chị Lawrence và là chủ nhân của 5 triệu sào đất thuộc Virginia. Lord Fairfax đã nhờ George đo đạc các miền đất ở bên ngoài rặng núi Blue Ridge, một công việc vừa cực nhọc, vừa nguy hiểm nhưng George đã làm xong trong hơn một năm. Sau đó, cũng do ảnh hưởng của Lord Fairfax, George được bổ nhiệm làm nhân viên đo đạc của hạt Culpeper, một công vụ đầu tiên. George Washington nhận chức vụ ngày 20/7/1749. Ngoài việc đo đất, George Washington với dáng người cao lớn, to mập, đã sống như một thanh niên trưởng giả nông thôn.
Năm 1751, anh Lawrence bị bệnh nặng nên muốn cùng với George đi tới Barbados là miền nắng ấm thuộc vùng Trung Mỹ. Hai anh em đã ra đi và tại miền nhiệt đới này, George bị bệnh đậu mùa khiến cho sau này còn mang vài vết sẹo trên mặt. George Washington trở lại Virginia lúc 20 tuổi và đã gặp cô Betsy Fauntleroy, con gái của một chủ đồn điền và chủ tầu giàu có, nhưng mối tình đầu của George đã bị cự tuyệt. Tháng 6 năm 1752, anh Lawrence trở về Bắc Mỹ rồi chết vì bệnh lao phổi, để lại miền Vernon cho vợ và cũng đã dành cho George một phần đất tại thung lũng Shenandoah cùng với ba người anh em khác.
3. Cuộc đời binh nghiệp
Vào tuổi 20, George Washington không được huấn luyện hay không có kinh nghiệm gì về quân sự nhưng các câu chuyện chiến tranh của anh Lawrence đã làm cho George quan tâm. George liền xin vị Thống Đốc địa phương một chức vụ quân sự. Năm 1753, Thống Đốc Dinwiddie ban cho George cấp bậc thiếu tá để huấn luyện dân quân địa phương tại miền nam Virginia. Có lẽ vào thời gian này, George Washington đã tìm đọc các sách vở về chiến thuật và huấn luyện quân đội.
Vào tuổi 20, George Washington không được huấn luyện hay không có kinh nghiệm gì về quân sự nhưng các câu chuyện chiến tranh của anh Lawrence đã làm cho George quan tâm. George liền xin vị Thống Đốc địa phương một chức vụ quân sự. Năm 1753, Thống Đốc Dinwiddie ban cho George cấp bậc thiếu tá để huấn luyện dân quân địa phương tại miền nam Virginia. Có lẽ vào thời gian này, George Washington đã tìm đọc các sách vở về chiến thuật và huấn luyện quân đội.
Tháng 10 năm 1753, Thống Đốc Dinwiddie cử George Washington đi tới miền thung lũng của giòng sông Ohio để đưa một bức thư cho vị chỉ huy đồn Le Boeuf. Bức thư này phản kháng việc người Pháp xây dựng một dãy đồn lũy trên phần đất nằm giữa hồ Ontario và sông Ohio. Cả người Anh và người Pháp thời đó đều muốn giành miền thung lũng này làm nơi trao đổi lông thú với dân da đỏ. George Washington đã ra đi, giao bức thư phản kháng và nhận xét đầy đủ các hoạt động của người Pháp. Cuộc hành trình kéo dài 10 tuần lễ với khá nhiều nguy hiểm. Hai lần George bị thổ dân da đỏ bắn khá gần và một lần bị rớt từ một cái bè xuống giòng sông Allegheny đầy đá lạnh.
Ngày 16 tháng 1 năm 1754, George Washington trở lại Williamsburg, VA., và giao bức thư trả lời của người Pháp cho Thống Đốc Dinwiddie đồng thời cũng khuyên ông Thống Đốc nên cho lập một đồn lũy tại nơi gặp nhau của 2 giòng sông Ohio và Allegheny, địa điểm mà sau này là thành phố Pittsburgh. Vì thế ông Thống Đốc đã ra lệnh cho một số người biên giới xây dựng đồn lũy đó, biết đâu rằng sự việc này đã mở đầu cuộc chiến tranh với người Pháp và dân Da Đỏ (the French and Indian War).
Không lâu sau đó, George Washington được phong cấp bậc Trung Tá của dân quân địa phương rồi nhận lệnh cùng với 200 binh lính loại này, tiến tới đồn lũy mà người Pháp đặt tên là Fort Duquesne. Ngày 28/5/1754, George Washington đã ra lệnh tấn công bất ngờ, khiến cho toán quân Pháp bị chết 10 người, 1 người bị thương, 21 người đầu hàng. Các binh lính của George Washington sau chiến thắng, đã xây đắp một đồn lũy mới, cách Fort Duquesne 97 cây số về phía nam và được đặt tên là Fort Necessity. Vào lúc này, George Washington được phong cấp bậc Đại Tá.
Tại Fort Necessity, George Washington có vào khoảng 180 dân quân Virginia rồi tới ngày 14/6/1754, gần 100 binh lính Anh cũng tới tăng cường cho đồn lũy này. Ngày 3/7, quân đội Pháp phối hợp với dân da đỏ, đã tấn công đồn và sau trận đánh, 30 người của George Washington đã bị giết, hơn 70 người bị thương, lương thực đã cạn, thời tiết rất xấu… tất cả đã khiến cho George Washington phải đầu hàng, trả lại các tù binh cũ. George Washington trở lại Williamsburg hai tuần lễ sau và được Nghị Viện Burgess của Virginia khen ngợi vì lòng cam đảm.
Qua tháng 10 năm đó, George Washington trở lại Williamsburg thì được Thống Đốc Dinwiddie cho biết lệnh từ nước Anh không cho phép một sĩ quan thuộc địa nào được mang cấp bậc cao hơn Đại Úy, trong khi George Washington lại đang muốn theo đời binh nghiệp. Vì thế ông liền từ chức, trở về miền Vernon, thuê thêm đất đai để trồng thuốc lá.
Tháng 3 năm 1755, George Washington nhận được một bức thư của Thiếu Tướng Edward Braddock. Vị tướng người Anh này muốn mời George Washington giúp công vào chiến dịch chống người Pháp tại Fort Duquesne. Washington nhận lời vì cho rằng đây là một cơ hội để học hỏi kinh nghiệm quân sự. Tướng Braddock liền tập trung quân lực tại Fort Cumberland, MD., 140 cây số về phía đông nam của Fort Duquesne rồi vào ngày 7 tháng 6, theo lối diễn hành, binh phục sặc sỡ, đoàn quân Anh ra trận. Nhìn thấy cảnh tiến quân của vị Tướng người Anh này, Washington rất bất mãn. Ông đã cảnh giác Tướng Anh về cách đánh lén của quân Pháp và dân Da Đỏ. Toán quân Anh sau đó đã lọt vào địa điểm phục kích của người Pháp và kết quả là 3 phần 4 trong số 1,400 binh lính chính quy Anh bị giết hoặc bị thương và chính Tướng Braddock cũng tử trận.
Tại các khu vực biên giới, người Pháp thời đó đã khuyến khích dân da đỏ tấn công những người định cư Anh vì thế, vào tháng 8/1755, Thống Đốc Dinwiddie phải mời George Washington giữ chức Đại Tá, coi toàn thể dân quân Virginia để kiểm soát phần biên giới trải dài 350 dậm hay 563 cây số. Đây là một danh dự lớn lao cho một sĩ quan trẻ 23 tuổi.
George Washington thường khuyên người Anh nên đánh chiếm Fort Duquesne nên vào năm 1758, quân chính quy người Anh và dân quân của George Washington đã tập trung tấn công đồn lũy đó. Trước tình thế không chống đỡ nổi, người Pháp đã đốt trụi đồn lũy này và rút về Canada. Cuộc chiến tranh với người Pháp và dân Da Đỏ coi như kết thúc. George Washington trở nên vị sĩ quan thuộc địa nổi danh nhất. Ông đã chứng tỏ có đầy đủ lòng cam đảm, tính kiên nhẫn cùng tài năng huấn luyện và lãnh đạo binh lính.
Ngày 16 tháng 1 năm 1754, George Washington trở lại Williamsburg, VA., và giao bức thư trả lời của người Pháp cho Thống Đốc Dinwiddie đồng thời cũng khuyên ông Thống Đốc nên cho lập một đồn lũy tại nơi gặp nhau của 2 giòng sông Ohio và Allegheny, địa điểm mà sau này là thành phố Pittsburgh. Vì thế ông Thống Đốc đã ra lệnh cho một số người biên giới xây dựng đồn lũy đó, biết đâu rằng sự việc này đã mở đầu cuộc chiến tranh với người Pháp và dân Da Đỏ (the French and Indian War).
Không lâu sau đó, George Washington được phong cấp bậc Trung Tá của dân quân địa phương rồi nhận lệnh cùng với 200 binh lính loại này, tiến tới đồn lũy mà người Pháp đặt tên là Fort Duquesne. Ngày 28/5/1754, George Washington đã ra lệnh tấn công bất ngờ, khiến cho toán quân Pháp bị chết 10 người, 1 người bị thương, 21 người đầu hàng. Các binh lính của George Washington sau chiến thắng, đã xây đắp một đồn lũy mới, cách Fort Duquesne 97 cây số về phía nam và được đặt tên là Fort Necessity. Vào lúc này, George Washington được phong cấp bậc Đại Tá.
Tại Fort Necessity, George Washington có vào khoảng 180 dân quân Virginia rồi tới ngày 14/6/1754, gần 100 binh lính Anh cũng tới tăng cường cho đồn lũy này. Ngày 3/7, quân đội Pháp phối hợp với dân da đỏ, đã tấn công đồn và sau trận đánh, 30 người của George Washington đã bị giết, hơn 70 người bị thương, lương thực đã cạn, thời tiết rất xấu… tất cả đã khiến cho George Washington phải đầu hàng, trả lại các tù binh cũ. George Washington trở lại Williamsburg hai tuần lễ sau và được Nghị Viện Burgess của Virginia khen ngợi vì lòng cam đảm.
Qua tháng 10 năm đó, George Washington trở lại Williamsburg thì được Thống Đốc Dinwiddie cho biết lệnh từ nước Anh không cho phép một sĩ quan thuộc địa nào được mang cấp bậc cao hơn Đại Úy, trong khi George Washington lại đang muốn theo đời binh nghiệp. Vì thế ông liền từ chức, trở về miền Vernon, thuê thêm đất đai để trồng thuốc lá.
Tháng 3 năm 1755, George Washington nhận được một bức thư của Thiếu Tướng Edward Braddock. Vị tướng người Anh này muốn mời George Washington giúp công vào chiến dịch chống người Pháp tại Fort Duquesne. Washington nhận lời vì cho rằng đây là một cơ hội để học hỏi kinh nghiệm quân sự. Tướng Braddock liền tập trung quân lực tại Fort Cumberland, MD., 140 cây số về phía đông nam của Fort Duquesne rồi vào ngày 7 tháng 6, theo lối diễn hành, binh phục sặc sỡ, đoàn quân Anh ra trận. Nhìn thấy cảnh tiến quân của vị Tướng người Anh này, Washington rất bất mãn. Ông đã cảnh giác Tướng Anh về cách đánh lén của quân Pháp và dân Da Đỏ. Toán quân Anh sau đó đã lọt vào địa điểm phục kích của người Pháp và kết quả là 3 phần 4 trong số 1,400 binh lính chính quy Anh bị giết hoặc bị thương và chính Tướng Braddock cũng tử trận.
Tại các khu vực biên giới, người Pháp thời đó đã khuyến khích dân da đỏ tấn công những người định cư Anh vì thế, vào tháng 8/1755, Thống Đốc Dinwiddie phải mời George Washington giữ chức Đại Tá, coi toàn thể dân quân Virginia để kiểm soát phần biên giới trải dài 350 dậm hay 563 cây số. Đây là một danh dự lớn lao cho một sĩ quan trẻ 23 tuổi.
George Washington thường khuyên người Anh nên đánh chiếm Fort Duquesne nên vào năm 1758, quân chính quy người Anh và dân quân của George Washington đã tập trung tấn công đồn lũy đó. Trước tình thế không chống đỡ nổi, người Pháp đã đốt trụi đồn lũy này và rút về Canada. Cuộc chiến tranh với người Pháp và dân Da Đỏ coi như kết thúc. George Washington trở nên vị sĩ quan thuộc địa nổi danh nhất. Ông đã chứng tỏ có đầy đủ lòng cam đảm, tính kiên nhẫn cùng tài năng huấn luyện và lãnh đạo binh lính.
4. Các năm thái bình
Vào tuổi 26, George Washington trở về đời sống dân sự. Mùa xuân năm 1758, ông kết hôn với một góa phụ trẻ đẹp và giàu có, bà Martha Dandridge Curtis, người đã có hai con riêng tên là Patty và Jack và sở hữu hơn 7,300 hecta đất gần Williamsburg. Đám cưới được tổ chức rất sang trọng có lẽ tại hạt New Kent.
Sau 6 tuần lễ trăng mật, George Washington đem gia đình về Williamsburg, ông trở nên một chủ trại giàu có nhất và khôn ngoan nhất vùng Virginia. Ông nghiên cứu các phương pháp trồng trọt đồng thời cũng được bầu làm nhân viên lập pháp địa phương, thuộc nghị viện Burgess. George Washington được cả giới quý tộc lẫn giai cấp bình dân kính trọng và quý mến vì tư cách, vẻ nghiêm trang và lòng tử tế, nhân hậu của ông. Ông cũng làm quen và đạt được niềm tin tưởng của các nhà lãnh đạo thuộc địa Virginia, những vị này bắt đầu nói về sự chống đối chính quyền cai trị của nước Anh trong đó phải kể tới Thomas Jefferson và Patrick Henry.
Cũng nhờ thời gian phục vụ tại Nghị Viện Virginia, George Washington đã học hỏi được các phương thức của một chính quyền dân cử, nhận thấy rõ các khó khăn khi một đạo luật được thông qua. Những kinh nghiệm sống này đã giúp cho George Washington có được đức tính nhẫn nại cần thiết cho cuộc chiến tranh Cách Mạng và về sau này, dùng để thương lượng với Quốc Hội khi làm Tổng Thống Hoa Kỳ.
Vào tháng 4/1759, George Washington dọn về Mount Vernon vì cả người chị dâu Lawrence lẫn con gái đã qua đời. Ông mua lại phần đất chung quanh rồi tới năm 1770, đã đi quan sát tới tận miền đất xa xôi mà ngày nay là thành phố Gallipolis, Ohio. Năm 1773, George Washington đã làm chủ được 16,000 hecta đất, trồng nhiều loại hoa màu, từ thuốc lá tới lúa mạch rồi khai thác cả về xay bột và đánh bắt cá.
Vào tuổi 26, George Washington trở về đời sống dân sự. Mùa xuân năm 1758, ông kết hôn với một góa phụ trẻ đẹp và giàu có, bà Martha Dandridge Curtis, người đã có hai con riêng tên là Patty và Jack và sở hữu hơn 7,300 hecta đất gần Williamsburg. Đám cưới được tổ chức rất sang trọng có lẽ tại hạt New Kent.
Sau 6 tuần lễ trăng mật, George Washington đem gia đình về Williamsburg, ông trở nên một chủ trại giàu có nhất và khôn ngoan nhất vùng Virginia. Ông nghiên cứu các phương pháp trồng trọt đồng thời cũng được bầu làm nhân viên lập pháp địa phương, thuộc nghị viện Burgess. George Washington được cả giới quý tộc lẫn giai cấp bình dân kính trọng và quý mến vì tư cách, vẻ nghiêm trang và lòng tử tế, nhân hậu của ông. Ông cũng làm quen và đạt được niềm tin tưởng của các nhà lãnh đạo thuộc địa Virginia, những vị này bắt đầu nói về sự chống đối chính quyền cai trị của nước Anh trong đó phải kể tới Thomas Jefferson và Patrick Henry.
Cũng nhờ thời gian phục vụ tại Nghị Viện Virginia, George Washington đã học hỏi được các phương thức của một chính quyền dân cử, nhận thấy rõ các khó khăn khi một đạo luật được thông qua. Những kinh nghiệm sống này đã giúp cho George Washington có được đức tính nhẫn nại cần thiết cho cuộc chiến tranh Cách Mạng và về sau này, dùng để thương lượng với Quốc Hội khi làm Tổng Thống Hoa Kỳ.
Vào tháng 4/1759, George Washington dọn về Mount Vernon vì cả người chị dâu Lawrence lẫn con gái đã qua đời. Ông mua lại phần đất chung quanh rồi tới năm 1770, đã đi quan sát tới tận miền đất xa xôi mà ngày nay là thành phố Gallipolis, Ohio. Năm 1773, George Washington đã làm chủ được 16,000 hecta đất, trồng nhiều loại hoa màu, từ thuốc lá tới lúa mạch rồi khai thác cả về xay bột và đánh bắt cá.
5. Tham gia cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ
Vào cuối thập niên 1760 và đầu thập niên 1770, các người thuộc địa Bắc Mỹ đã trở nên giận dữ vì nước Anh áp đặt các loại thuế cao lên đầu họ. Cuộc chiến tranh với người Pháp và dân Da Đỏ (1754-63) đã làm gia tăng phần đất sở hữu của nước Anh tại Bắc Mỹ và chính quyền Anh Quốc vì thế quyết định phải đặt quân đội Anh tại các xứ thuộc địa này để ngăn chặn người Pháp và bảo vệ dân thuộc địa khỏi sự tấn công của thổ dân Da Đỏ. Sự kiện kể trên đã khiến người Anh cho rằng các xứ thuộc địa phải đóng góp vào các chi phí yểm trợ quân đội. Để làm giảm bớt nợ nần, chính phủ Anh đã thông qua một đạo luật, có tên là Đạo Luật Tem Thuế (the Stamps Acts) vào năm 1765, theo đó tất cả các tài liệu quan trọng, các tạp chí, sách lịch, sách mỏng và các cỗ bài… đều phải chịu thuế.
Loại tem thuế này đã gây công phẫn nơi dân địa phương vì 3 lý do: thứ nhất, dân thuộc địa Bắc Mỹ gánh chịu thuế mà không có đại diện; thứ hai, họ phản đối sự có mặt của quân đội Anh và thứ ba, thuế phải trả bằng tiền “bạc”. Các phản đối đã khiến ông Benjamin Franklin phải qua bên Anh Quốc để thương thảo, đồng thời 9 thuộc địa Bắc Mỹ đã lập nên Nghị Viện Tem Thuế (the Stamp Act Congress), họp tại thành phố New York vào ngày 7/10/1765 và Nghị Viện đã tuyên bố rằng chỉ các “nghị viện thuộc địa” mới có quyền đánh thuế người dân xứ này. Việc phản đối luật tem thuế đã khiến cho nhiều cửa hàng thương mại không dán tem và các thương gia đồng ý không nhập cảng hàng hóa từ nước Anh. Các xáo trộn kinh tế, luật pháp… đã khiến cho vào mùa đông năm 1766, giới dân nghèo bị thất nghiệp, chịu thiệt hại nhiều nhất.
Là một nhà lập pháp địa phương và một chủ trại giàu có, ông George Washington rất quan tâm đến sự liên lạc với nước Anh. Ông đã đọc rất nhiều sách báo bàn thảo về các khủng hoảng chính trị thời đó, về các công việc của các xứ thuộc địa, đồng thời ông cũng tham khảo với những người hiểu biết, học rộng, trong đó có ông George Mason, một chính trị gia hàng đầu của thời đại.
Sự khủng hoảng địa phương đã khiến cho vị Thống Đốc người Anh của miền Virginia là Lord Botetourt ra lệnh giải tán Nghị Viện Virginia vào năm 1769 vì các đại biểu đã phản đối đạo luật tem thuế. Ông George Washington liền cùng các nhà lập pháp khác hội họp tại một quán rượu của Williamsburg và đề nghị một chương trình tẩy chay hàng hóa nhập cảng từ nước Anh và chương trình này đã được với ông George Mason bàn luận tới trước kia. Ông George Washington trở nên một trong các lãnh tụ người địa phương đầu tiên muốn cứu xét việc dùng sức mạnh để “duy trì nền tự do của các xứ thuộc địa”.
Sự chống đối luật tem thuế, không nhập cảng hàng hóa Anh cũng làm cho các thương gia bên Anh Quốc bị ảnh hưởng, họ đã áp lực chính phủ Anh phải duyệt xét lại đạo luật và ngay tại Quốc Hội Anh, ông William Pitt Già (the Elder) đã đồng ý với công cuộc tranh đấu của các người thuộc địa Bắc Mỹ. Vào tháng 3 năm 1766, đạo luật Tem Thuế đã được thay bằng một đạo luật khác (the Declaratory Act), trao quyền tối cao cho Quốc Hội và quy định rằng chỉ Quốc Hội Anh mới có quyền lập pháp và quyền đánh thuế các xứ thuộc địa.
Các rắc rối của nước Anh đối với xứ thuộc địa Bắc Mỹ còn tiếp tục. Năm 1774, người Anh đã đóng cửa hải cảng Boston cho đến khi nào đòi được tiền bồi thường về số lượng trà bị các người thuộc địa Bắc Mỹ ném xuống biển vào năm 1773. Sau đó tới Đạo Luật Chính Quyền Massachusetts (the Massachusetts Government Act) đã cho phép thiết lập một chính quyền quân sự và Đạo Luật Tư Pháp Hành Chánh (the Administration of Justice Act) đã biệt đãi các nhân viên phạm pháp người Anh được xét xử khi về Anh Quốc hay qua một xứ thuộc địa khác.
Sự áp chế của chính quyền Anh đối với xứ thuộc địa Bắc Mỹ đã khiến cho các nhà chính trị tại Massachusetts kêu gọi triệu tập vào tháng 6/1774 một hội nghị bao gồm tất cả các xứ thuộc địa ngoại trừ xứ Georgia. 44 đại biểu đã tới họp vào ngày 5 tháng 9 năm 1774 tại phòng lớn Carpenter thuộc thành phố Philadelphia. Đây là “Quốc Hội Lục Địa Thứ Nhất” (the First Continental Congress) với ông Peyton Randolph thuộc miền Virginia được đồng thanh bầu làm chủ tịch và mỗi xứ thuộc địa được chia một phiếu bầu bất kể tới diện tích lớn nhỏ, dân số nhiều ít. Trong số các đại biểu ban đầu đã có các ông George Washington, John Jay, Patrick Henry, John Adams và Samuel Adams. Tới năm sau, 1775, Quốc Hội này còn có thêm Benjamin Franklin và Thomas Jefferson tham gia. Các đại biểu của Quốc Hội Lục Địa đã bỏ phiếu công nhận một bản “Tuyên Bố về Dân Quyền” (a declaration of rights) gồm các quyền về đời sống, tự do, tài sản, hội họp và quyền được xét xử do một bồi thẩm đoàn.
Tại Quốc Hội Lục Địa Thứ Nhất, ông George Washington đã có cơ hội gặp gỡ các nhà lãnh đạo của các xứ thuộc địa khác. Nhiều đại biểu đã phải khâm phục kiến thức quân sự và tài xét đoán của ông Washington. Quốc Hội này cũng đồng ý tẩy chay sự giao dịch thương mại với nước Anh.
Vào tháng 3/1775, các đại biểu của xứ Virginia họp nhau tại một nhà thờ của thành phố Richmond, VA., và ông Washington cũng như các vị khác đã nghe bài diễn văn hùng hồn của Patrick Henry trong đó có câu: “Cho tôi Tự Do hay cho tôi Chết” (Give me liberty or give me death). Sau đó, các đại biểu này đồng tâm bầu ông George Washington đi đại diện xứ Virginia tại “Quốc Hội Lục Địa Thứ Hai” (the Second Congress).
Khi Quốc Hội Thứ Hai khai mạc vào ngày 10/5/1775, đã xẩy ra các trận chiến giữa người thuộc địa Bắc Mỹ và người Anh tại Lexington và Concord thuộc xứ Massachusetts. Trong 6 tuần lễ tranh luận, phần lớn đại biểu trong đó có ông Washington muốn tránh chiến tranh, nhưng sự tranh chấp với người Anh càng trở nên căng thẳng khiến cho ông George Washington được Quốc Hội chỉ định vào một ủy ban quân sự. Ông được yêu cầu lập ra một kế hoạch phòng thủ thành phố New York, viết ra các chương trình xây dựng quân đội, các quy luật cho binh lính và các cách thức mua súng đạn.
Sau đó vào tháng 6, Quốc Hội Lục Địa họp tại các xứ Pennsylvania, Maryland và Virginia, đã bàn tới việc gửi quân trợ giúp thành phố Boston là nơi đang nằm dưới quyền kiểm soát của người Anh. Ông John Adams đã trình bày trước Quốc Hội rằng cần phải có một vị Tổng Tư Lệnh và đã ca ngợi ông George Washington là người có thể đoàn kết các xứ thuộc địa trong khi các đại biểu của xứ Tân Anh Cát Lợi lại muốn bầu cho một người miền bắc nhưng cuối cùng, ông George Washington đã được đồng thanh chấp thuận.
Các người thuộc địa Bắc Mỹ vào thời kỳ này đã được dạy dỗ phải kính trọng Vua nước Anh. Họ cũng không dễ dàng chấp nhận các ý niệm về Độc Lập, ngoài ra còn hàng ngàn người thuộc địa trung thành và có cảm tình với nước Anh (the Loyalists), đã từ chối tranh đấu cho một nền Độc Lập mới. Do nhận thấy các quyền lợi của dân thuộc địa bị vi phạm, Quốc Hội Lục Địa Bắc Mỹ đã công bố “Bản Tuyên Ngôn Độc Lập” (The Declaration of Independence) vào ngày 4 tháng 7 năm 1776 và ông George Washington đã là niềm tin của cả những kẻ chống đối lẫn các người ủng hộ Quốc Hội. Hầu Tước De Lafayette về sau đã phải viết rằng ngoài ông George Washington, không ai tại Bắc Mỹ có thể duy trì được quân đội và Cuộc Cách Mạng lâu hơn 6 tháng.
Từ khi Bản Tuyên Ngôn Độc Lập được công bố, Tướng George Washington đã là vị chỉ huy quân đội lục địa. Ít khi ông có hơn 15,000 quân sĩ. Dưới quyền ông vào thời đó có hai loại lính: lính được tổ chức bởi Quốc Hội và dân quân do các xứ thuộc địa tuyển mộ. Các binh lính của Quốc Hội Lục Địa thường phục vụ ngắn hạn, hàng ngàn người bỏ về nhà khi hết thời hạn, còn loại dân quân gồm các nông dân, chủ tiệm nhỏ, thợ thuyền… thiếu huấn luyện, họ thường bỏ chạy khi thấy binh phục màu đỏ của quân đội Anh. Việc đào ngũ của binh lính cũng là một trở ngại lớn lao đối với ông George Washington. Ngoài ra còn có các sĩ quan kém khả năng và các cấp tướng được Quốc Hội bổ nhiệm vì lý do chính trị mà không hỏi ý kiến ông George Washington. Các vị tướng như Charles Lee và Horatio Gates đôi khi không tuân lệnh ông Washington vì họ tin rằng họ đáng được tuyển chọn làm Tổng Tư Lệnh quân đội. Tướng Thomas Conway còn chỉ trích ông George Washington vì có sự yểm trợ từ Quốc Hội.
Vào giai đoạn ban đầu như vậy, đội quân của Tướng George Washington vừa thiếu huấn luyện, vừa thiếu thực phẩm, quần áo và súng đạn. Năm 1777, Tướng Washington đã phải ra lệnh rút lui khỏi thành phố Philadelphia trước khi quân Anh tiến tới. Mùa đông năm đó, Tướng Washington đặt bộ chỉ huy tại Valley Forge, PA., một nơi cách thành phố Philadelphia 32 cây số về phía tây bắc. Sở dĩ nơi này được chọn lựa vì là một địa điểm chiến lược nằm giữa quân đội Anh và Quốc Hội Lục Địa khi đó đang đóng đô tạm tại thị trấn York, Pennsylvania.
Sau các trận đánh Brandywine và Germantown, đội quân thuộc địa chỉ còn 11,000 binh lính. Đây là những người thiếu ăn, thiếu quân trang và súng đạn, hàng trăm người lính không có giầy, phải đi chân không, hơn 2,000 lính đào ngũ và Tướng Nathanael Greene đã mô tả đạo quân của Tướng George Washington là “một nửa trơ trụi, hai phần ba đói ăn…”. Đoàn ngựa chiến cũng ở trong hoàn cảnh thiếu thực phẩm. Quốc Hội Lục Địa cũng không có phương cách nào khác hơn để trợ giúp quân đội trong thời kỳ đen tối của cuộc Chiến Tranh Cách Mạng này. Nhưng quân đội thuộc địa này đã không thiếu lòng cam đảm và tinh thần hy sinh. Dưới tài huấn luyện của Bá Tước Frederick William von Steuben, các binh lính được tập dượt để trở nên một lực lượng chiến đấu có kỷ luật và hữu hiệu.
Trong cuộc chiến tranh giành Độc Lập này, người Mỹ thuộc địa đã có nhiều lợi điểm. Họ hiểu rõ địa hình hơn, dễ dàng tập trung hỏa lực tại nơi hiểm yếu để đánh phá quân đội Anh vào lúc cần, trong khi binh lính Anh lại thiếu tinh thần chiến đấu và binh lực Anh chỉ đủ người tấn công các xứ thuộc địa trung tâm của lãnh thổ Bắc Mỹ rộng lớn, trải dài từ Maine tới Georgia và sâu vào trong lục địa tới 300 dậm. Việc chuyên chở tiếp liệu từ nước Anh qua Bắc Mỹ cũng là một trở ngại trái ngược với việc dân quân thuộc địa có thể tự túc lâu dài.
Vào thời gian đầu của cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ, Quốc Hội Lục Địa đã gửi tới nước Pháp các đại sứ để yêu cầu trợ giúp về quần áo và súng đạn. Chiến thắng Saratoga vào năm 1777 là do võ khí và quân trang từ nước Pháp, và các cá nhân người Pháp, đứng đầu là Hầu Tước De Lafayette, đã sang Bắc Mỹ và giúp đỡ quốc gia non trẻ Hoa Kỳ.
Ngay từ đầu cuộc chiến, ông George Washington đã nhận ra sức mạnh của Hải Quân Anh. Các tầu chiến Anh có thể chở quân lính tới bất cứ nơi nào trên miền duyên hải Bắc Mỹ trong khi quân đội Anh lại di chuyển rất chậm chạp trên bộ. Từ kinh nghiệm trong cuộc chiến tranh với người Pháp và dân Da Đỏ, ông George Washington cho rằng ông có thể đánh bại quân đội Anh nếu có hạm đội Pháp tới giúp, ngăn chặn không cho lực lượng Hải Quân Anh bỏ chạy. Cách tính toán này đã đến vào ngày 28 tháng 9 năm 1781, khi Tướng George Washington hạ lệnh tấn công đội quân của Lord Charles Cornwallis và hạm đội Pháp đã bao vây ngoài biển. Kết quả là Tướng Cornwallis và 8,000 binh lính Anh đã phải đầu hàng vào ngày 19 tháng 10 năm đó tại thành phố Yorktown, Virginia.
Sau cuộc chiến thắng rực rỡ này, một số sĩ quan quân đội lục địa cảm thấy họ bị Quốc Hội đối xử bất công. Tháng 5 năm 1782, Đại Tá Lewis Nicola gửi tới ông George Washington lời thỉnh cầu của đa số sĩ quan muốn thiết lập nên một chế độ quân chủ theo đó ông Washington sẽ làm Vua. Ông George Washington đã “ghê sợ” đề nghị đó và ra lệnh cho Đại Tá Nicola nên dẹp bỏ ý định trên.
Vào tháng 11 năm 1783, tin tức về Hiệp Ước Paris đã được ký kết bay tới Bắc Mỹ và các binh lính Anh cuối cùng xuống tầu tại thành phố New York để về xứ vào ngày 25 tháng 11 năm đó. Ngày 4 tháng 12 năm 1783, ông George Washington từ giã các sĩ quan dưới quyền tại Fraunces Tavern và trên đường trở về Virginia, ông đã tạt qua tham dự buổi họp của Quốc Hội Lục Địa tại Annapolis, MD., và trả lại quyền Tổng Tư Lệnh. Ông đã nói: “Tôi xin từ chức sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ chỉ định mà tôi đã nhận với lòng thiếu tự tin…”
Loại tem thuế này đã gây công phẫn nơi dân địa phương vì 3 lý do: thứ nhất, dân thuộc địa Bắc Mỹ gánh chịu thuế mà không có đại diện; thứ hai, họ phản đối sự có mặt của quân đội Anh và thứ ba, thuế phải trả bằng tiền “bạc”. Các phản đối đã khiến ông Benjamin Franklin phải qua bên Anh Quốc để thương thảo, đồng thời 9 thuộc địa Bắc Mỹ đã lập nên Nghị Viện Tem Thuế (the Stamp Act Congress), họp tại thành phố New York vào ngày 7/10/1765 và Nghị Viện đã tuyên bố rằng chỉ các “nghị viện thuộc địa” mới có quyền đánh thuế người dân xứ này. Việc phản đối luật tem thuế đã khiến cho nhiều cửa hàng thương mại không dán tem và các thương gia đồng ý không nhập cảng hàng hóa từ nước Anh. Các xáo trộn kinh tế, luật pháp… đã khiến cho vào mùa đông năm 1766, giới dân nghèo bị thất nghiệp, chịu thiệt hại nhiều nhất.
Là một nhà lập pháp địa phương và một chủ trại giàu có, ông George Washington rất quan tâm đến sự liên lạc với nước Anh. Ông đã đọc rất nhiều sách báo bàn thảo về các khủng hoảng chính trị thời đó, về các công việc của các xứ thuộc địa, đồng thời ông cũng tham khảo với những người hiểu biết, học rộng, trong đó có ông George Mason, một chính trị gia hàng đầu của thời đại.
Sự khủng hoảng địa phương đã khiến cho vị Thống Đốc người Anh của miền Virginia là Lord Botetourt ra lệnh giải tán Nghị Viện Virginia vào năm 1769 vì các đại biểu đã phản đối đạo luật tem thuế. Ông George Washington liền cùng các nhà lập pháp khác hội họp tại một quán rượu của Williamsburg và đề nghị một chương trình tẩy chay hàng hóa nhập cảng từ nước Anh và chương trình này đã được với ông George Mason bàn luận tới trước kia. Ông George Washington trở nên một trong các lãnh tụ người địa phương đầu tiên muốn cứu xét việc dùng sức mạnh để “duy trì nền tự do của các xứ thuộc địa”.
Sự chống đối luật tem thuế, không nhập cảng hàng hóa Anh cũng làm cho các thương gia bên Anh Quốc bị ảnh hưởng, họ đã áp lực chính phủ Anh phải duyệt xét lại đạo luật và ngay tại Quốc Hội Anh, ông William Pitt Già (the Elder) đã đồng ý với công cuộc tranh đấu của các người thuộc địa Bắc Mỹ. Vào tháng 3 năm 1766, đạo luật Tem Thuế đã được thay bằng một đạo luật khác (the Declaratory Act), trao quyền tối cao cho Quốc Hội và quy định rằng chỉ Quốc Hội Anh mới có quyền lập pháp và quyền đánh thuế các xứ thuộc địa.
Các rắc rối của nước Anh đối với xứ thuộc địa Bắc Mỹ còn tiếp tục. Năm 1774, người Anh đã đóng cửa hải cảng Boston cho đến khi nào đòi được tiền bồi thường về số lượng trà bị các người thuộc địa Bắc Mỹ ném xuống biển vào năm 1773. Sau đó tới Đạo Luật Chính Quyền Massachusetts (the Massachusetts Government Act) đã cho phép thiết lập một chính quyền quân sự và Đạo Luật Tư Pháp Hành Chánh (the Administration of Justice Act) đã biệt đãi các nhân viên phạm pháp người Anh được xét xử khi về Anh Quốc hay qua một xứ thuộc địa khác.
Sự áp chế của chính quyền Anh đối với xứ thuộc địa Bắc Mỹ đã khiến cho các nhà chính trị tại Massachusetts kêu gọi triệu tập vào tháng 6/1774 một hội nghị bao gồm tất cả các xứ thuộc địa ngoại trừ xứ Georgia. 44 đại biểu đã tới họp vào ngày 5 tháng 9 năm 1774 tại phòng lớn Carpenter thuộc thành phố Philadelphia. Đây là “Quốc Hội Lục Địa Thứ Nhất” (the First Continental Congress) với ông Peyton Randolph thuộc miền Virginia được đồng thanh bầu làm chủ tịch và mỗi xứ thuộc địa được chia một phiếu bầu bất kể tới diện tích lớn nhỏ, dân số nhiều ít. Trong số các đại biểu ban đầu đã có các ông George Washington, John Jay, Patrick Henry, John Adams và Samuel Adams. Tới năm sau, 1775, Quốc Hội này còn có thêm Benjamin Franklin và Thomas Jefferson tham gia. Các đại biểu của Quốc Hội Lục Địa đã bỏ phiếu công nhận một bản “Tuyên Bố về Dân Quyền” (a declaration of rights) gồm các quyền về đời sống, tự do, tài sản, hội họp và quyền được xét xử do một bồi thẩm đoàn.
Tại Quốc Hội Lục Địa Thứ Nhất, ông George Washington đã có cơ hội gặp gỡ các nhà lãnh đạo của các xứ thuộc địa khác. Nhiều đại biểu đã phải khâm phục kiến thức quân sự và tài xét đoán của ông Washington. Quốc Hội này cũng đồng ý tẩy chay sự giao dịch thương mại với nước Anh.
Vào tháng 3/1775, các đại biểu của xứ Virginia họp nhau tại một nhà thờ của thành phố Richmond, VA., và ông Washington cũng như các vị khác đã nghe bài diễn văn hùng hồn của Patrick Henry trong đó có câu: “Cho tôi Tự Do hay cho tôi Chết” (Give me liberty or give me death). Sau đó, các đại biểu này đồng tâm bầu ông George Washington đi đại diện xứ Virginia tại “Quốc Hội Lục Địa Thứ Hai” (the Second Congress).
Khi Quốc Hội Thứ Hai khai mạc vào ngày 10/5/1775, đã xẩy ra các trận chiến giữa người thuộc địa Bắc Mỹ và người Anh tại Lexington và Concord thuộc xứ Massachusetts. Trong 6 tuần lễ tranh luận, phần lớn đại biểu trong đó có ông Washington muốn tránh chiến tranh, nhưng sự tranh chấp với người Anh càng trở nên căng thẳng khiến cho ông George Washington được Quốc Hội chỉ định vào một ủy ban quân sự. Ông được yêu cầu lập ra một kế hoạch phòng thủ thành phố New York, viết ra các chương trình xây dựng quân đội, các quy luật cho binh lính và các cách thức mua súng đạn.
Sau đó vào tháng 6, Quốc Hội Lục Địa họp tại các xứ Pennsylvania, Maryland và Virginia, đã bàn tới việc gửi quân trợ giúp thành phố Boston là nơi đang nằm dưới quyền kiểm soát của người Anh. Ông John Adams đã trình bày trước Quốc Hội rằng cần phải có một vị Tổng Tư Lệnh và đã ca ngợi ông George Washington là người có thể đoàn kết các xứ thuộc địa trong khi các đại biểu của xứ Tân Anh Cát Lợi lại muốn bầu cho một người miền bắc nhưng cuối cùng, ông George Washington đã được đồng thanh chấp thuận.
Các người thuộc địa Bắc Mỹ vào thời kỳ này đã được dạy dỗ phải kính trọng Vua nước Anh. Họ cũng không dễ dàng chấp nhận các ý niệm về Độc Lập, ngoài ra còn hàng ngàn người thuộc địa trung thành và có cảm tình với nước Anh (the Loyalists), đã từ chối tranh đấu cho một nền Độc Lập mới. Do nhận thấy các quyền lợi của dân thuộc địa bị vi phạm, Quốc Hội Lục Địa Bắc Mỹ đã công bố “Bản Tuyên Ngôn Độc Lập” (The Declaration of Independence) vào ngày 4 tháng 7 năm 1776 và ông George Washington đã là niềm tin của cả những kẻ chống đối lẫn các người ủng hộ Quốc Hội. Hầu Tước De Lafayette về sau đã phải viết rằng ngoài ông George Washington, không ai tại Bắc Mỹ có thể duy trì được quân đội và Cuộc Cách Mạng lâu hơn 6 tháng.
Từ khi Bản Tuyên Ngôn Độc Lập được công bố, Tướng George Washington đã là vị chỉ huy quân đội lục địa. Ít khi ông có hơn 15,000 quân sĩ. Dưới quyền ông vào thời đó có hai loại lính: lính được tổ chức bởi Quốc Hội và dân quân do các xứ thuộc địa tuyển mộ. Các binh lính của Quốc Hội Lục Địa thường phục vụ ngắn hạn, hàng ngàn người bỏ về nhà khi hết thời hạn, còn loại dân quân gồm các nông dân, chủ tiệm nhỏ, thợ thuyền… thiếu huấn luyện, họ thường bỏ chạy khi thấy binh phục màu đỏ của quân đội Anh. Việc đào ngũ của binh lính cũng là một trở ngại lớn lao đối với ông George Washington. Ngoài ra còn có các sĩ quan kém khả năng và các cấp tướng được Quốc Hội bổ nhiệm vì lý do chính trị mà không hỏi ý kiến ông George Washington. Các vị tướng như Charles Lee và Horatio Gates đôi khi không tuân lệnh ông Washington vì họ tin rằng họ đáng được tuyển chọn làm Tổng Tư Lệnh quân đội. Tướng Thomas Conway còn chỉ trích ông George Washington vì có sự yểm trợ từ Quốc Hội.
Vào giai đoạn ban đầu như vậy, đội quân của Tướng George Washington vừa thiếu huấn luyện, vừa thiếu thực phẩm, quần áo và súng đạn. Năm 1777, Tướng Washington đã phải ra lệnh rút lui khỏi thành phố Philadelphia trước khi quân Anh tiến tới. Mùa đông năm đó, Tướng Washington đặt bộ chỉ huy tại Valley Forge, PA., một nơi cách thành phố Philadelphia 32 cây số về phía tây bắc. Sở dĩ nơi này được chọn lựa vì là một địa điểm chiến lược nằm giữa quân đội Anh và Quốc Hội Lục Địa khi đó đang đóng đô tạm tại thị trấn York, Pennsylvania.
Sau các trận đánh Brandywine và Germantown, đội quân thuộc địa chỉ còn 11,000 binh lính. Đây là những người thiếu ăn, thiếu quân trang và súng đạn, hàng trăm người lính không có giầy, phải đi chân không, hơn 2,000 lính đào ngũ và Tướng Nathanael Greene đã mô tả đạo quân của Tướng George Washington là “một nửa trơ trụi, hai phần ba đói ăn…”. Đoàn ngựa chiến cũng ở trong hoàn cảnh thiếu thực phẩm. Quốc Hội Lục Địa cũng không có phương cách nào khác hơn để trợ giúp quân đội trong thời kỳ đen tối của cuộc Chiến Tranh Cách Mạng này. Nhưng quân đội thuộc địa này đã không thiếu lòng cam đảm và tinh thần hy sinh. Dưới tài huấn luyện của Bá Tước Frederick William von Steuben, các binh lính được tập dượt để trở nên một lực lượng chiến đấu có kỷ luật và hữu hiệu.
Trong cuộc chiến tranh giành Độc Lập này, người Mỹ thuộc địa đã có nhiều lợi điểm. Họ hiểu rõ địa hình hơn, dễ dàng tập trung hỏa lực tại nơi hiểm yếu để đánh phá quân đội Anh vào lúc cần, trong khi binh lính Anh lại thiếu tinh thần chiến đấu và binh lực Anh chỉ đủ người tấn công các xứ thuộc địa trung tâm của lãnh thổ Bắc Mỹ rộng lớn, trải dài từ Maine tới Georgia và sâu vào trong lục địa tới 300 dậm. Việc chuyên chở tiếp liệu từ nước Anh qua Bắc Mỹ cũng là một trở ngại trái ngược với việc dân quân thuộc địa có thể tự túc lâu dài.
Vào thời gian đầu của cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ, Quốc Hội Lục Địa đã gửi tới nước Pháp các đại sứ để yêu cầu trợ giúp về quần áo và súng đạn. Chiến thắng Saratoga vào năm 1777 là do võ khí và quân trang từ nước Pháp, và các cá nhân người Pháp, đứng đầu là Hầu Tước De Lafayette, đã sang Bắc Mỹ và giúp đỡ quốc gia non trẻ Hoa Kỳ.
Ngay từ đầu cuộc chiến, ông George Washington đã nhận ra sức mạnh của Hải Quân Anh. Các tầu chiến Anh có thể chở quân lính tới bất cứ nơi nào trên miền duyên hải Bắc Mỹ trong khi quân đội Anh lại di chuyển rất chậm chạp trên bộ. Từ kinh nghiệm trong cuộc chiến tranh với người Pháp và dân Da Đỏ, ông George Washington cho rằng ông có thể đánh bại quân đội Anh nếu có hạm đội Pháp tới giúp, ngăn chặn không cho lực lượng Hải Quân Anh bỏ chạy. Cách tính toán này đã đến vào ngày 28 tháng 9 năm 1781, khi Tướng George Washington hạ lệnh tấn công đội quân của Lord Charles Cornwallis và hạm đội Pháp đã bao vây ngoài biển. Kết quả là Tướng Cornwallis và 8,000 binh lính Anh đã phải đầu hàng vào ngày 19 tháng 10 năm đó tại thành phố Yorktown, Virginia.
Sau cuộc chiến thắng rực rỡ này, một số sĩ quan quân đội lục địa cảm thấy họ bị Quốc Hội đối xử bất công. Tháng 5 năm 1782, Đại Tá Lewis Nicola gửi tới ông George Washington lời thỉnh cầu của đa số sĩ quan muốn thiết lập nên một chế độ quân chủ theo đó ông Washington sẽ làm Vua. Ông George Washington đã “ghê sợ” đề nghị đó và ra lệnh cho Đại Tá Nicola nên dẹp bỏ ý định trên.
Vào tháng 11 năm 1783, tin tức về Hiệp Ước Paris đã được ký kết bay tới Bắc Mỹ và các binh lính Anh cuối cùng xuống tầu tại thành phố New York để về xứ vào ngày 25 tháng 11 năm đó. Ngày 4 tháng 12 năm 1783, ông George Washington từ giã các sĩ quan dưới quyền tại Fraunces Tavern và trên đường trở về Virginia, ông đã tạt qua tham dự buổi họp của Quốc Hội Lục Địa tại Annapolis, MD., và trả lại quyền Tổng Tư Lệnh. Ông đã nói: “Tôi xin từ chức sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ chỉ định mà tôi đã nhận với lòng thiếu tự tin…”
6. Phục vụ chính quyền
Ông George Washington trở về Mount Vernon năm 1783 như một công dân bình thường, lúc này ông đã 51 tuổi với mái tóc bắt đầu bạc và mắt phải mang kính. Ông lại quan tâm về canh nông, dùng phương pháp luân canh và phân bón, nuôi cừu và lừa, khai phá đất hoang và thỉnh thoảng vẫn tiếp đón các khách phương xa, các bạn bè tạt qua thăm viếng. Ông George Washington vẫn tin tưởng vào việc phát triển xứ sở về phía tây. Năm 1784, ông đã làm một cuộc hành trình trên lưng ngựa dài 680 dậm (1,090 cây số) theo hướng tây để thăm thú vùng đất hoang nằm tại phía tây nam Pittsburgh. Ông cũng giúp đỡ 2 công ty đào các con kênh dọc theo sông Potomac và sông James đồng thời tham dự vào chương trình cải tạo đồng lầy Dismal ở miền nam Virginia.
Vào năm 1786, tình trạng rối loạn và vô chính phủ đã xẩy ra tại xứ thuộc địa Bắc Mỹ. Tại Massachusetts có cuộc nổi loạn Shay. Cuối cùng các tiểu bang non trẻ Hoa Kỳ đồng ý phải hội họp vào năm 1787 để cứu xét lại các “Điều Lệ của Liên Bang” (the Articles of Confederation). Hiến Pháp đầu tiên của Hoa Kỳ được viết ra vào năm 1776 khi cuộc chiến tranh Cách Mạng còn đang diễn tiến và được gọi bằng danh hiệu “Các Điều Lệ của Liên Bang”. Văn kiện này đã không được tất cả các tiểu bang phê chuẩn khi Hoa Kỳ tuyên bố độc lập vào ngày 4 tháng 7 năm 1776. Trong thời gian này, Quốc Hội Lục Địa là chính quyền trung ương duy nhất.
Người dân Hoa Kỳ vào năm 1776 đã không tin tưởng một chính quyền tập trung, có quá nhiều quyền hành. Vì thế 7 tiểu bang đã đề nghị văn bản “Luật Dân Quyền” (the Bill of Rights) theo đó có nhiều điều mà chính quyền trung ương không được phép vi phạm, chẳng hạn như chính quyền không thể tước đi tài sản của công dân mà không bồi thường, không được phép bắt giam công dân nếu không có lý do chính đáng và người công dân có quyền được xét xử trước bồi thẩm đoàn.
Quốc Hội Lập Hiến của Hoa Kỳ được trù liệu tổ chức tại Philadelphia vào tháng 5 năm 1787. Ông George Washington được đồng thanh cử làm vị đứng đầu đoàn đại biểu của xứ Virginia. Khi ông tới Philadelphia, nhiều người đã nghênh đón ông, chuông nhà thờ đã đổ nhiều hồi, chào mừng ông. Các đại biểu đã bầu ông George Washington làm Chủ Tịch của Quốc Hội Lập Hiến.
Các cuộc thảo luận sôi nổi về một bản Hiến Pháp mới đã kéo dài suốt mùa hè năm đó, rồi tới tháng 9, mới đạt được sự đồng ý cuối cùng. Sau khi bản Hiến Pháp được phê chuẩn, cử tri đoàn bắt đầu bầu Tổng Thống vào tháng 2 năm 1789. Ông George Washington được toàn thể 69 phiếu bầu, đắc cử Tổng Thống Hoa Kỳ đầu tiên. Trúng cử Phó Tổng Thống là ông John Adams với 34 phiếu.
Lễ nhậm chức Tổng Thống được trù liệu vào ngày 30 tháng 4 năm 1789. Ông George Washington đi từ Mount Vernon tới thành phố New York, dọc đường tất cả các thành phố, thị xã… đều chào mừng ông như một vị anh hùng dân tộc. Ngày hôm đó, ông George Washington, 57 tuổi, đã ngồi trên cỗ xe ngựa màu ngà để đi tới Phòng Lớn Liên Bang (Federal Hall) trên đường Broad và Wall. Hàng ngàn người đã thấy ông bước lên Tòa Nhà Thượng Viện và trên bao lơn, ông George Washington đã đưa tay phải lên tuyên thệ, tay trái đặt trên cuốn Thánh Kinh, trước mặt vị Thẩm Phán Robert R. Livingston của thành phố New York.
Vào thời kỳ ông Washington làm Tổng Thống đầu tiên, Hoa Kỳ chỉ là một quốc gia nhỏ và yếu, với 11 tiểu bang trải dài xa nhất về phía tây tới giòng sông Mississippi. Phần lớn dân chúng sống bằng nghề nông. Rất ít trẻ em đi tới trường học và đa số người trưởng thành không biết đọc và không biết viết. Các phương tiện giao thông, chuyên chở còn sơ sài và chính ông Washington cũng phải mất 3 ngày để đi quãng đường 90 dậm (140 cây số) từ New York tới Philadelphia. Thành phố New York là thủ đô đầu tiên của quốc gia. Ông George Washington đã tổ chức Nội Các gồm các ông John Jay làm Chánh Án Tòa Tối Cao, ông Edmund Randolph được bổ nhiệm Bộ Trưởng Tư Pháp, ông Thomas Jefferson lãnh chức Bộ Trưởng Ngoại Giao, Tướng Henry Knox làm Bộ Trưởng Chiến Tranh và ông Alexander Hamilton lo Bộ Ngân Khố…
Ông George Washington trở về Mount Vernon năm 1783 như một công dân bình thường, lúc này ông đã 51 tuổi với mái tóc bắt đầu bạc và mắt phải mang kính. Ông lại quan tâm về canh nông, dùng phương pháp luân canh và phân bón, nuôi cừu và lừa, khai phá đất hoang và thỉnh thoảng vẫn tiếp đón các khách phương xa, các bạn bè tạt qua thăm viếng. Ông George Washington vẫn tin tưởng vào việc phát triển xứ sở về phía tây. Năm 1784, ông đã làm một cuộc hành trình trên lưng ngựa dài 680 dậm (1,090 cây số) theo hướng tây để thăm thú vùng đất hoang nằm tại phía tây nam Pittsburgh. Ông cũng giúp đỡ 2 công ty đào các con kênh dọc theo sông Potomac và sông James đồng thời tham dự vào chương trình cải tạo đồng lầy Dismal ở miền nam Virginia.
Vào năm 1786, tình trạng rối loạn và vô chính phủ đã xẩy ra tại xứ thuộc địa Bắc Mỹ. Tại Massachusetts có cuộc nổi loạn Shay. Cuối cùng các tiểu bang non trẻ Hoa Kỳ đồng ý phải hội họp vào năm 1787 để cứu xét lại các “Điều Lệ của Liên Bang” (the Articles of Confederation). Hiến Pháp đầu tiên của Hoa Kỳ được viết ra vào năm 1776 khi cuộc chiến tranh Cách Mạng còn đang diễn tiến và được gọi bằng danh hiệu “Các Điều Lệ của Liên Bang”. Văn kiện này đã không được tất cả các tiểu bang phê chuẩn khi Hoa Kỳ tuyên bố độc lập vào ngày 4 tháng 7 năm 1776. Trong thời gian này, Quốc Hội Lục Địa là chính quyền trung ương duy nhất.
Người dân Hoa Kỳ vào năm 1776 đã không tin tưởng một chính quyền tập trung, có quá nhiều quyền hành. Vì thế 7 tiểu bang đã đề nghị văn bản “Luật Dân Quyền” (the Bill of Rights) theo đó có nhiều điều mà chính quyền trung ương không được phép vi phạm, chẳng hạn như chính quyền không thể tước đi tài sản của công dân mà không bồi thường, không được phép bắt giam công dân nếu không có lý do chính đáng và người công dân có quyền được xét xử trước bồi thẩm đoàn.
Quốc Hội Lập Hiến của Hoa Kỳ được trù liệu tổ chức tại Philadelphia vào tháng 5 năm 1787. Ông George Washington được đồng thanh cử làm vị đứng đầu đoàn đại biểu của xứ Virginia. Khi ông tới Philadelphia, nhiều người đã nghênh đón ông, chuông nhà thờ đã đổ nhiều hồi, chào mừng ông. Các đại biểu đã bầu ông George Washington làm Chủ Tịch của Quốc Hội Lập Hiến.
Các cuộc thảo luận sôi nổi về một bản Hiến Pháp mới đã kéo dài suốt mùa hè năm đó, rồi tới tháng 9, mới đạt được sự đồng ý cuối cùng. Sau khi bản Hiến Pháp được phê chuẩn, cử tri đoàn bắt đầu bầu Tổng Thống vào tháng 2 năm 1789. Ông George Washington được toàn thể 69 phiếu bầu, đắc cử Tổng Thống Hoa Kỳ đầu tiên. Trúng cử Phó Tổng Thống là ông John Adams với 34 phiếu.
Lễ nhậm chức Tổng Thống được trù liệu vào ngày 30 tháng 4 năm 1789. Ông George Washington đi từ Mount Vernon tới thành phố New York, dọc đường tất cả các thành phố, thị xã… đều chào mừng ông như một vị anh hùng dân tộc. Ngày hôm đó, ông George Washington, 57 tuổi, đã ngồi trên cỗ xe ngựa màu ngà để đi tới Phòng Lớn Liên Bang (Federal Hall) trên đường Broad và Wall. Hàng ngàn người đã thấy ông bước lên Tòa Nhà Thượng Viện và trên bao lơn, ông George Washington đã đưa tay phải lên tuyên thệ, tay trái đặt trên cuốn Thánh Kinh, trước mặt vị Thẩm Phán Robert R. Livingston của thành phố New York.
Vào thời kỳ ông Washington làm Tổng Thống đầu tiên, Hoa Kỳ chỉ là một quốc gia nhỏ và yếu, với 11 tiểu bang trải dài xa nhất về phía tây tới giòng sông Mississippi. Phần lớn dân chúng sống bằng nghề nông. Rất ít trẻ em đi tới trường học và đa số người trưởng thành không biết đọc và không biết viết. Các phương tiện giao thông, chuyên chở còn sơ sài và chính ông Washington cũng phải mất 3 ngày để đi quãng đường 90 dậm (140 cây số) từ New York tới Philadelphia. Thành phố New York là thủ đô đầu tiên của quốc gia. Ông George Washington đã tổ chức Nội Các gồm các ông John Jay làm Chánh Án Tòa Tối Cao, ông Edmund Randolph được bổ nhiệm Bộ Trưởng Tư Pháp, ông Thomas Jefferson lãnh chức Bộ Trưởng Ngoại Giao, Tướng Henry Knox làm Bộ Trưởng Chiến Tranh và ông Alexander Hamilton lo Bộ Ngân Khố…
Tổng Thống George Washington đã điều hành Nội Các đồng thời cơ quan lập pháp cũng bắt đầu trắc nghiệm các quyền hạn. Các đạo luật về tài chính, thuế vụ… được thông qua và Quốc Hội Hoa Kỳ cũng chấp thuận thuyên chuyển Thủ Đô về Philadelphia cho tới năm 1800 rồi sau đó, dời về khu vực liên bang bên giòng sông Potomac. Tháng 4 năm 1792, cuộc thống kê đầu tiên cho thấy Hoa Kỳ có dân số 3,929,214 người gồm cả 697,000 nô lệ.
Việc điều hành chính quyền của Tổng Thống Washington không khỏi không gặp các chia rẽ. Các người ủng hộ ông Hamilton, với chủ trương một chính quyền quốc gia mạnh, đã lập ra “đảng Liên Bang” (The Federalist Party) là đảng của các tiểu bang miền Bắc, của các chủ ngân hàng và kỹ nghệ gia, trong khi ông Jefferson lại bênh vực các quyền lợi được quy định bởi Hiến Pháp, nên đã lập ra “đảng Dân Chủ-Cộng Hòa” (the Democratic-Republic Party) với sự hậu thuẫn của giới trại chủ và các tiểu bang miền Nam. Trước sự chia rẽ này, Tổng Thống George Washington đã cố giữ lập trường trung lập và cố gắng làm suy giảm sự phát triển của các đảng phái chính trị.
Tháng 12 năm 1792, cử tri đoàn Hoa Kỳ đã bầu lại chức vụ Tổng Thống. Cuộc kiểm phiếu được thực hiện xong vào ngày 13 tháng 2 năm 1793 và ông George Washington được tái cử với số thăm cao nhất là 132. Ông Adams lại trở nên Phó Tổng Thống với 77 phiếu bầu. Lễ nhậm chức Tổng Thống kỳ thứ hai của ông George Washington được tổ chức tại Phòng Lớn Quốc Hội (Congress Hall) của thành phố Philadelphia vào ngày 4 tháng 3 năm 1793. Trong nhiệm kỳ thứ hai này, vị Tổng Thống 61 tuổi đã phải giải quyết nhiều vấn đề khó khăn hơn.
Vào tháng 4 năm 1794, nước Cộng Hòa Pháp non trẻ đang giao chiến với các nước Anh, Áo, Phổ và Tây Ban Nha. Mặc dù vào năm 1778, Hoa Kỳ đã ký hiệp ước liên minh với Vua nước Pháp, Tổng Thống Washington vẫn muốn giữ cho Hoa Kỳ ở vị thế trung lập và lập trường này được ông Hamilton ủng hộ trong khi ông Jefferson lại thiên vị cuộc Cách Mạng Pháp. Do lệnh của Tổng Thống, ông Bộ Trưởng Tư Pháp đã thảo ra bản tuyên bố “trung lập” và văn kiện này được ông George Washington ký vào ngày 22 tháng 4 năm đó, xác định tính cách thân thiện và trung lập đối với các quốc gia lâm chiến ở châu Âu. Bản tuyên bố kể trên cũng cấm cản các tầu biển Hoa Kỳ không được phép chuyên chở các tiếp liệu chiến tranh tới các vùng biển giao chiến.
Quyết định của Hoa Kỳ đứng ngoài cuộc chiến của châu Âu đã làm vừa lòng nước Anh nhưng lại làm giận dữ người Pháp. Các nhà lãnh đạo Cách Mạng Pháp đòi hỏi Hoa Kỳ phải về phe với họ, nhưng khi Vua Louis 16 bị hành quyết, Hoa Kỳ lâm vào một tình trạng khó xử. Vị đại sứ của nước Pháp tại Hoa Kỳ là ông Edmond Genêt đã bí mật vận động với đảng Dân Chủ-Cộng Hòa để lôi kéo Hoa Kỳ về phía nước Pháp đồng thời cố gắng trang bị các tầu chiến tại các hải cảng Hoa Kỳ rồi gửi đi chống Hải Quân Anh. Việc làm của ông Genêt đã gây ra tranh luận sôi nổi trong Nội Các của Tổng Thống Washington vào tháng 7/1793 và cuối cùng, chính Tổng Thống Washington đã yêu cầu nước Pháp phải triệu hồi ông Genêt về nước. Vấn đề trung lập nhờ đó đã được giải quyết và được Hoa Kỳ duy trì, cho tới 20 năm về sau, ý tưởng Trung Lập được Tổng Thống James Monroe xác định rõ ràng bằng chủ thuyết đứng ngoài các cuộc chiến tranh của châu Âu.
Vào nhiệm kỳ thứ hai của Tổng Thống Washington, nước Anh vẫn còn chiếm đóng các đồn lũy và các địa điểm trao đổi hàng hóa tại bờ phía nam của Ngũ Hồ (Great Lakes) trong khi những nơi này theo Hiệp Ước Hòa Bình, phải được trao trả về cho Hoa Kỳ. Tại miền nam, Tây Ban Nha cũng đang chiếm giữ các phần tiểu bang Mississippi, Alabama và Tennessee.
Năm 1794, chiến tranh giữa nước Anh và Tây Ban Nha sắp bùng nổ. Tổng Thống Washington bèn cử ông John Jay làm đại sứ đặc quyền, tới London để ký hiệp ước thương mại và dàn xếp các tranh chấp biên giới. Nước Anh sau đó đồng ý nhượng lại các vùng Niagara, Detroit, đảo Mackinac và vài nơi khác cho Hoa Kỳ. Một vị đại sứ đặc quyền khác là ông Thomas Pincknay cũng tới Madrid vào năm 1795 và đạt được sự ưng thuận của Tây Ban Nha tôn trọng vĩ tuyến 31 là lằn ranh giữa Hoa Kỳ và Florida, mở cửa vùng Mississippi cho Hoa Kỳ buôn bán và đặt thành phố New Orleans là hải cảng miễn thuế cho người Mỹ.
Trên vùng lục địa, các người Mỹ khẩn hoang đã đi đến miền Cincinnati và các nông trại của họ đã lan rộng tới gần các giòng sông Muskingum, Scioto và Miami nhưng tại nơi biên giới, thường xẩy ra các giao tranh. Tổng Thống Washington bèn cử Tướng “Mad Anthony” Wayne thiết lập một dãy đồn lũy từ Cincinnati tới Fort Defiance và cuối cùng, cac người da đỏ đã bị đánh bại tại Fallen Timbers. Tại vùng biên giới phía nam, các tiểu bang Georgia và Tennessee cũng được ổn định và Liên Bang Hoa Kỳ sau này tiếp nhận tiểu bang Kentucky vào năm 1792 và Tennessee vào năm 1796.
Trước năm 1794, theo đề nghị của ông Bộ Trưởng Tài Chính Hamilton và để làm giảm nợ nần quốc gia, chính phủ Hoa Kỳ phải đánh một thứ thuế lên rượu huýt-ki (whiskey) và việc áp dụng thu thuế mới này đã gây ra công phẫn cho các chủ trại tại 4 hạt (counties) ở phía tây của tiểu bang Pennsylvania. Rượi huýt-ki là một sản phẩm quan trọng nơi vùng biên giới. Do không thể bán ngũ cốc xa nhà và để tránh cước phí chuyên chở, các trại chủ đã nấu rượu, và rượu huýt-ki còn trở nên một thứ tiền trao đổi. Trước thứ thuế mới này, các trại chủ đã võ trang và tấn công nhân viên Liên Bang. Để duy trì luật pháp và ý tưởng tôn trọng các quy luật đóng thuế, tháng 11/1794, Tổng Thống Washington đã gửi 15,000 dân quân của các tiểu bang gần đó, tiến đến Bedford, Pa., và đóng tại các miền núi lân cận. Trước áp lực quân sự, các kẻ dấy loạn đã đầu hàng. Việc thi hành Luật Pháp này đã khiến cho về sau, các người khẩn hoang miền Tây thiên về đảng Dân Chủ-Cộng Hòa của ông Jefferson.
Vào cuối nhiệm kỳ hai, Tổng Thống George Washington cảm thấy buồn nản vì các trận tấn công chính trị. Hạ Viện vào thời kỳ này lại gồm đa số là các dân biểu thuộc đảng Dân Chủ-Cộng Hòa thiếu thiện cảm. Ông George Washington cũng e ngại rằng nền hòa bình của quốc gia non trẻ này có thể bị phá hủy bởi cuộc nội chiến. Ngoài ra, ông Washington cũng cảm thấy cao tuổi. Ông cho rằng nắm quyền hành quá lâu là một hành động thiếu khôn ngoan. Ông đã khước từ một nhiệm kỳ Tổng Thống lần thứ ba và điều này đã trở thành một tiền lệ đối với các vị Tổng Thống về sau, ngoại trừ trường hợp đặc biệt của Tổng Thống Franklin D. Roosevelt.
Vào tháng 5 năm 1796, ông Washington đã bàn thảo với các ông Madison, Jay và Hamilton, duyệt lại bài “Diễn văn từ biệt” và cuối cùng vào tháng 9, văn bản này đã được gửi cho chủ bút của tờ báo American Daily Advertiser, một nhật báo của Philadelphia, để phổ biến vào ngày 19 tháng 9.
Trong cuộc vận động tranh cử sau đó, ông George Washington đã ưa thích ông John Adams, một ứng viên của đảng Liên Bang trong khi ứng viên đối thủ là ông Thomas Jefferson thuộc đảng Dân Chủ-Cộng Hòa. Tuy nhiên, Tổng Thống Washington đã không tích cực tham dự vào việc vận động tranh cử.
Sau cuộc bầu cử năm 1796, ông Jefferson được 68 phiếu cử tri, thua ông Adams 3 phiếu. Vào lễ nhậm chức tháng 3 năm 1797, ông John Adams trở nên Tổng Thống Hoa Kỳ, Phó Tổng Thống là ông Jefferson. Sau cuộc bầu cử này, ông George Washington đã rất vui mừng và đã nói với ông Adams: “Tôi ra khỏi và anh bước vô, hãy coi ai trong chúng ta sung sướng hơn?”.
Khi ông George Washington bắt đầu nhậm chức Tổng Thống, quốc gia non trẻ Hoa Kỳ chỉ có 11 tiểu bang. Sau nhiệm kỳ 2 của Tổng Thống Washington, nước Hoa Kỳ đã bao gồm 16 tiểu bang.
Tháng 12 năm 1792, cử tri đoàn Hoa Kỳ đã bầu lại chức vụ Tổng Thống. Cuộc kiểm phiếu được thực hiện xong vào ngày 13 tháng 2 năm 1793 và ông George Washington được tái cử với số thăm cao nhất là 132. Ông Adams lại trở nên Phó Tổng Thống với 77 phiếu bầu. Lễ nhậm chức Tổng Thống kỳ thứ hai của ông George Washington được tổ chức tại Phòng Lớn Quốc Hội (Congress Hall) của thành phố Philadelphia vào ngày 4 tháng 3 năm 1793. Trong nhiệm kỳ thứ hai này, vị Tổng Thống 61 tuổi đã phải giải quyết nhiều vấn đề khó khăn hơn.
Vào tháng 4 năm 1794, nước Cộng Hòa Pháp non trẻ đang giao chiến với các nước Anh, Áo, Phổ và Tây Ban Nha. Mặc dù vào năm 1778, Hoa Kỳ đã ký hiệp ước liên minh với Vua nước Pháp, Tổng Thống Washington vẫn muốn giữ cho Hoa Kỳ ở vị thế trung lập và lập trường này được ông Hamilton ủng hộ trong khi ông Jefferson lại thiên vị cuộc Cách Mạng Pháp. Do lệnh của Tổng Thống, ông Bộ Trưởng Tư Pháp đã thảo ra bản tuyên bố “trung lập” và văn kiện này được ông George Washington ký vào ngày 22 tháng 4 năm đó, xác định tính cách thân thiện và trung lập đối với các quốc gia lâm chiến ở châu Âu. Bản tuyên bố kể trên cũng cấm cản các tầu biển Hoa Kỳ không được phép chuyên chở các tiếp liệu chiến tranh tới các vùng biển giao chiến.
Quyết định của Hoa Kỳ đứng ngoài cuộc chiến của châu Âu đã làm vừa lòng nước Anh nhưng lại làm giận dữ người Pháp. Các nhà lãnh đạo Cách Mạng Pháp đòi hỏi Hoa Kỳ phải về phe với họ, nhưng khi Vua Louis 16 bị hành quyết, Hoa Kỳ lâm vào một tình trạng khó xử. Vị đại sứ của nước Pháp tại Hoa Kỳ là ông Edmond Genêt đã bí mật vận động với đảng Dân Chủ-Cộng Hòa để lôi kéo Hoa Kỳ về phía nước Pháp đồng thời cố gắng trang bị các tầu chiến tại các hải cảng Hoa Kỳ rồi gửi đi chống Hải Quân Anh. Việc làm của ông Genêt đã gây ra tranh luận sôi nổi trong Nội Các của Tổng Thống Washington vào tháng 7/1793 và cuối cùng, chính Tổng Thống Washington đã yêu cầu nước Pháp phải triệu hồi ông Genêt về nước. Vấn đề trung lập nhờ đó đã được giải quyết và được Hoa Kỳ duy trì, cho tới 20 năm về sau, ý tưởng Trung Lập được Tổng Thống James Monroe xác định rõ ràng bằng chủ thuyết đứng ngoài các cuộc chiến tranh của châu Âu.
Vào nhiệm kỳ thứ hai của Tổng Thống Washington, nước Anh vẫn còn chiếm đóng các đồn lũy và các địa điểm trao đổi hàng hóa tại bờ phía nam của Ngũ Hồ (Great Lakes) trong khi những nơi này theo Hiệp Ước Hòa Bình, phải được trao trả về cho Hoa Kỳ. Tại miền nam, Tây Ban Nha cũng đang chiếm giữ các phần tiểu bang Mississippi, Alabama và Tennessee.
Năm 1794, chiến tranh giữa nước Anh và Tây Ban Nha sắp bùng nổ. Tổng Thống Washington bèn cử ông John Jay làm đại sứ đặc quyền, tới London để ký hiệp ước thương mại và dàn xếp các tranh chấp biên giới. Nước Anh sau đó đồng ý nhượng lại các vùng Niagara, Detroit, đảo Mackinac và vài nơi khác cho Hoa Kỳ. Một vị đại sứ đặc quyền khác là ông Thomas Pincknay cũng tới Madrid vào năm 1795 và đạt được sự ưng thuận của Tây Ban Nha tôn trọng vĩ tuyến 31 là lằn ranh giữa Hoa Kỳ và Florida, mở cửa vùng Mississippi cho Hoa Kỳ buôn bán và đặt thành phố New Orleans là hải cảng miễn thuế cho người Mỹ.
Trên vùng lục địa, các người Mỹ khẩn hoang đã đi đến miền Cincinnati và các nông trại của họ đã lan rộng tới gần các giòng sông Muskingum, Scioto và Miami nhưng tại nơi biên giới, thường xẩy ra các giao tranh. Tổng Thống Washington bèn cử Tướng “Mad Anthony” Wayne thiết lập một dãy đồn lũy từ Cincinnati tới Fort Defiance và cuối cùng, cac người da đỏ đã bị đánh bại tại Fallen Timbers. Tại vùng biên giới phía nam, các tiểu bang Georgia và Tennessee cũng được ổn định và Liên Bang Hoa Kỳ sau này tiếp nhận tiểu bang Kentucky vào năm 1792 và Tennessee vào năm 1796.
Trước năm 1794, theo đề nghị của ông Bộ Trưởng Tài Chính Hamilton và để làm giảm nợ nần quốc gia, chính phủ Hoa Kỳ phải đánh một thứ thuế lên rượu huýt-ki (whiskey) và việc áp dụng thu thuế mới này đã gây ra công phẫn cho các chủ trại tại 4 hạt (counties) ở phía tây của tiểu bang Pennsylvania. Rượi huýt-ki là một sản phẩm quan trọng nơi vùng biên giới. Do không thể bán ngũ cốc xa nhà và để tránh cước phí chuyên chở, các trại chủ đã nấu rượu, và rượu huýt-ki còn trở nên một thứ tiền trao đổi. Trước thứ thuế mới này, các trại chủ đã võ trang và tấn công nhân viên Liên Bang. Để duy trì luật pháp và ý tưởng tôn trọng các quy luật đóng thuế, tháng 11/1794, Tổng Thống Washington đã gửi 15,000 dân quân của các tiểu bang gần đó, tiến đến Bedford, Pa., và đóng tại các miền núi lân cận. Trước áp lực quân sự, các kẻ dấy loạn đã đầu hàng. Việc thi hành Luật Pháp này đã khiến cho về sau, các người khẩn hoang miền Tây thiên về đảng Dân Chủ-Cộng Hòa của ông Jefferson.
Vào cuối nhiệm kỳ hai, Tổng Thống George Washington cảm thấy buồn nản vì các trận tấn công chính trị. Hạ Viện vào thời kỳ này lại gồm đa số là các dân biểu thuộc đảng Dân Chủ-Cộng Hòa thiếu thiện cảm. Ông George Washington cũng e ngại rằng nền hòa bình của quốc gia non trẻ này có thể bị phá hủy bởi cuộc nội chiến. Ngoài ra, ông Washington cũng cảm thấy cao tuổi. Ông cho rằng nắm quyền hành quá lâu là một hành động thiếu khôn ngoan. Ông đã khước từ một nhiệm kỳ Tổng Thống lần thứ ba và điều này đã trở thành một tiền lệ đối với các vị Tổng Thống về sau, ngoại trừ trường hợp đặc biệt của Tổng Thống Franklin D. Roosevelt.
Vào tháng 5 năm 1796, ông Washington đã bàn thảo với các ông Madison, Jay và Hamilton, duyệt lại bài “Diễn văn từ biệt” và cuối cùng vào tháng 9, văn bản này đã được gửi cho chủ bút của tờ báo American Daily Advertiser, một nhật báo của Philadelphia, để phổ biến vào ngày 19 tháng 9.
Trong cuộc vận động tranh cử sau đó, ông George Washington đã ưa thích ông John Adams, một ứng viên của đảng Liên Bang trong khi ứng viên đối thủ là ông Thomas Jefferson thuộc đảng Dân Chủ-Cộng Hòa. Tuy nhiên, Tổng Thống Washington đã không tích cực tham dự vào việc vận động tranh cử.
Sau cuộc bầu cử năm 1796, ông Jefferson được 68 phiếu cử tri, thua ông Adams 3 phiếu. Vào lễ nhậm chức tháng 3 năm 1797, ông John Adams trở nên Tổng Thống Hoa Kỳ, Phó Tổng Thống là ông Jefferson. Sau cuộc bầu cử này, ông George Washington đã rất vui mừng và đã nói với ông Adams: “Tôi ra khỏi và anh bước vô, hãy coi ai trong chúng ta sung sướng hơn?”.
Khi ông George Washington bắt đầu nhậm chức Tổng Thống, quốc gia non trẻ Hoa Kỳ chỉ có 11 tiểu bang. Sau nhiệm kỳ 2 của Tổng Thống Washington, nước Hoa Kỳ đã bao gồm 16 tiểu bang.
7. Các năm cuối đời
Vào tuổi 65, ông George Washington trở lại miền Mount Vernon. Công việc quản trị nông trại rộng tới 3,075 hecta đã chiếm hết thời giờ của ông. Ngoài ra, ông Washington còn làm giám đốc một ngân hàng tại Alexandria, VA., và đôi khi ông cũng đi thăm viếng công cuộc xây cất một thành phố mới là Washington D. C. mà vào thời bấy giờ, được gọi bằng tên “Thành Phố Liên Bang” (The Federal City).
Vào tuổi 65, ông George Washington trở lại miền Mount Vernon. Công việc quản trị nông trại rộng tới 3,075 hecta đã chiếm hết thời giờ của ông. Ngoài ra, ông Washington còn làm giám đốc một ngân hàng tại Alexandria, VA., và đôi khi ông cũng đi thăm viếng công cuộc xây cất một thành phố mới là Washington D. C. mà vào thời bấy giờ, được gọi bằng tên “Thành Phố Liên Bang” (The Federal City).
Trong khi ông George Washington đang vui hưởng cảnh hưu trí thì liên lạc ngoại giao giữa Hoa Kỳ và nước Pháp trở nên xấu đi. Chính phủ Hoa Kỳ quyết định tăng cường quân lực. Tổng Thống Adams đành kêu gọi sự giúp đỡ của ông Washington. Ngày 4/7/1798, Tổng Thống John Adams đã bổ nhiệm ông George Washington làm Trung Tướng và Tổng Tư Lệnh quân lực Hoa Kỳ, nhưng rồi các đe dọa chiến tranh suy giảm khiến cho ông George Washington đã không phải nắm chức vụ.
Tại nông trại vùng Mount Vernon, ông George Washington thường có các bạn bè lại thăm. Người ta kể rằng ông bà Washington đã sống rất thanh lịch và điều độ. Mỗi ngày, bữa điểm tâm được dọn ra lúc 7 giờ, 3 giờ là bữa ăn trưa, bữa uống trà lúc 7 giờ chiều và 9 giờ là bữa ăn tối. Ông Washington đã dùng thời giờ ban sáng để cưỡi ngựa, đi dạo quanh nông trại. Ông được kể là một nhân vật đáng kính.
Sáng ngày 12 tháng 12 năm 1799, ông George Washington cưỡi ngựa đi dạo quanh nông trại trong 5 giờ liền. Trời bắt đầu đổ tuyết rồi chuyển sang mưa đá. Khi về nhà, ông Washington đã để nguyên quần áo ướt và ngồi vào bàn ăn. Ngày hôm sau, ông bị đau cổ họng. Tới tối ngày 13, ông bị cảm nặng rồi qua đời đêm hôm thứ Bẩy, 14/12/1799.
Ông George Washington được chôn cất trong phần mộ của gia đình tại Mount Vernon. Tại Hoa Kỳ, hàng ngàn người đã đau buồn về cái tang lớn này. Tin buồn cũng được loan tới nhiều nước trên thế giới và mọi người đều thương tiếc một Vĩ Nhân của đất nước Hoa Kỳ.
Trong bài điếu văn đọc lên nhân ngày an táng của ông Washington, ông John Marshall đã dẫn chứng một câu nói đáng nhớ của Henry Lee, một viên sĩ quan của Tướng George Washington, và câu nói này đã mô tả những gì mà mọi công dân Hoa Kỳ đã nghĩ về Vị Tổng Thống đầu tiên của họ và về vị trí của ông Washington trong nền Lịch Sử Hoa Kỳ, đó là câu: “Ông George Washington xứng đáng là Danh Nhân “bậc nhất trong Chiến Tranh, bậc nhất trong Hòa Bình và bậc nhất trong Trái Tim của tất cả đồng bào của Ông” (First in war, first in peace, and first in the hearts of his countrymen).
Sáng ngày 12 tháng 12 năm 1799, ông George Washington cưỡi ngựa đi dạo quanh nông trại trong 5 giờ liền. Trời bắt đầu đổ tuyết rồi chuyển sang mưa đá. Khi về nhà, ông Washington đã để nguyên quần áo ướt và ngồi vào bàn ăn. Ngày hôm sau, ông bị đau cổ họng. Tới tối ngày 13, ông bị cảm nặng rồi qua đời đêm hôm thứ Bẩy, 14/12/1799.
Ông George Washington được chôn cất trong phần mộ của gia đình tại Mount Vernon. Tại Hoa Kỳ, hàng ngàn người đã đau buồn về cái tang lớn này. Tin buồn cũng được loan tới nhiều nước trên thế giới và mọi người đều thương tiếc một Vĩ Nhân của đất nước Hoa Kỳ.
Trong bài điếu văn đọc lên nhân ngày an táng của ông Washington, ông John Marshall đã dẫn chứng một câu nói đáng nhớ của Henry Lee, một viên sĩ quan của Tướng George Washington, và câu nói này đã mô tả những gì mà mọi công dân Hoa Kỳ đã nghĩ về Vị Tổng Thống đầu tiên của họ và về vị trí của ông Washington trong nền Lịch Sử Hoa Kỳ, đó là câu: “Ông George Washington xứng đáng là Danh Nhân “bậc nhất trong Chiến Tranh, bậc nhất trong Hòa Bình và bậc nhất trong Trái Tim của tất cả đồng bào của Ông” (First in war, first in peace, and first in the hearts of his countrymen).
Phạm Văn Tuấn
No comments:
Post a Comment