dangdung00
.
“Việc nước chưa xong đầu đã bạc”
Gươm mài sắc cạnh ánh trăng rầu

.
dangdung01 .
Đội trời đạp đất ngẩng cao đầu
Thử thách trui rèn cũng bấy lâu
Hữu dụng thất phu tung chí thỏa
Hết thời tướng kiệt nuốt cay sầu
Nợ đền báo quốc còn dang dở
Nghiệp đáp ơn dân vẫn rối bâu
“Việc nước chưa xong dầu đã bạc”
Gươm mài sắc cạnh ánh trăng rầu
Học trò trường thuốc
---oOo---
Đặng Dung (? – 1414) là tác giả bài thơ Thuật hoài nổi tiếng và là danh tướng nhà hậu Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông quê người huyện Thiên Lộc, trấn Nghệ An (nay là huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh). Theo Đại Nam Nhất Thống Chí - phần Nghệ An tỉnh thì: Tổ tiên Đặng Dung vốn người Hóa Châu, sau di cư đến làng Phù Lưu, huyện Thiên Lộc
Dưới triều nhà Hồ, ông giúp cha là Đặng Tất (? - 1409) cai quản đất Thuận Hóa. Sau khi quân Minh từ Trung Quốc tiến chiếm nước Việt (khi ấy có quốc hiệu là Đại Ngu), nhà Hồ sụp đổ, Đặng Dung cùng cha tham gia cuộc khởi nghĩa của Trần Ngỗi, tức Giản Định Đế
Năm 1409, sau trận đại chiến ở Bô Cô (xã Hiếu Cổ, huyện Ý Yên, thuộc tỉnh Nam Định ngày nay); vì nghe lời gièm pha của bọn hoạn quan là Nguyễn Quỹ, nói rằng Đặng Tất chuyên quyền, vua Giản Định Đế đem lòng ngờ vực đã giết Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân. Đặng Dung tức giận bỏ Trần Ngỗi, cùng Nguyễn Cảnh Dị (con của Nguyễn Cảnh Chân) rước Trần Quý Khoáng từ Thanh Hóa về đất Chi La (nay là huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh), tôn lên ngôi vua (tức Trùng Quang Đế), và ông được giữ chức Đồng bình chương sự
Về sau, do nhu cầu cần phải hợp nhất hai lực lượng, các tướng của Trần Quý Khoáng do Nguyễn Súy cầm đầu đã tổ chức đánh úp vào Ngự Thiên, đem Trần Ngỗi về Chi La tôn làm Thượng Hoàng
Dù phải chiến đấu dưới quyền người đã giết cha mình, nhưng vì sự nghiệp chung ông đã “vượt lên trên tất cả, trước sau vẫn giữ vững phẩm cách đường đường của một vị tướng.” (Nguyễn Khắc Thuần, sách dẫn bên dưới, tr. 234). Từ đó ông trải qua rất nhiều trận giao chiến, nổi bật hơn cả là trận đánh vào tháng 9 năm Quý Tị (1413) ở khu vực Thái Gia (theo Minh Sử của Trương Đĩnh Ngọc thì trận đánh này xảy ra tại Ái Tử, nay thuộc huyện Triệu Phong, Quảng Trị. Dẫn lại theo Nguyễn Khắc Thuần, sách đã dẫn, tr. 235)
Đại Việt Sử Kí Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên chép:
“Đang khi đôi bên quân nam và quân bắc đang cầm cự nhau thì Đặng Dung bí mật dùng bộ binh và tượng binh mai phục, đúng nửa đêm thì bất ngờ đánh úp vào doanh trại của (Trương) Phụ. (Đặng) Dung đã nhảy lên thuyền của (Trương) Phụ và định bắt sống (Trương) Phụ nhưng lại không biết mặt để có thể nhận ra hắn, vì thế, (Trương) Phụ liền nhảy sang thuyền nhỏ chạy thoát. Quân Minh bị tan vỡ đến quá nữa, thuyền bè, khí giới bị đốt phá gần hết, thế mà (Nguyễn) Súy không biết hợp lực để cùng đánh. (Trương) Phụ biết quân của (Đặng) Dung ít nên lập tức quay lại đánh. (Đặng) Dung đành phải chịu thất bại, quân sĩ chạy tan tác hết.” (theo Đại Việt Sử Kí Toàn Thư, Bản kỉ toàn thư, quyển 9, tờ 22-b). Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục chép tương tự và hạ bút viết lời tiếc rẻ: ''Trời nuông tha trương Phụ'' (Chính biên, quyển 12, tờ 39)
Nguyễn Khắc Thuần kể tiếp:
“Tháng 11 năm 1413, Đặng Dung cùng Nguyễn Cảnh Dị bị Trương Phụ bắt sống khi đang tìm đường tạm lánh sang Xiêm La để tính kế lâu dài. Vì liên tục lớn tiếng chửi mắng nên Nguyễn Cảnh Dị đã bị Trương Phụ hạ lệnh giết ngay. Còn Đặng Dung cùng Trần Quý Khoáng, Nguyễn Súy và một số tướng lãnh khác bị áp giải về Yên Kinh (Trung Quốc). Dọc đường, Trần Quý Khoáng nhảy xuống biển tự tử, Đặng Dung cũng lập tức nhảy xuống chết theo.” (Sách dẫn bên dưới, tr. 236)
Trần Trọng Kim cũng cho biết tương tự:
“Từ khi thua trận ấy rồi, Trần Quý Khoách thế yếu quá không thể chống với quân giặc được nữa, phải vào ẩn núp ở trong rừng núi. Chẳng được bao lâu Trần Quý Khoáng, Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Dung, Nguyễn Súy đều bị bắt, và phải giải về Yên Kinh cả. Đi đến giữa đường, Quý Khoách nhảy xuống bể tự tử, bọn ông Đặng Dung cũng tử tiết cả. Ông Đặng Dung có làm bài thơ Thuật hoài, mà ngày nay còn có nhiều người vẫn truyền tụng
Cha con ông Đặng Dung đều hết lòng giúp nước phò vua, tuy không thành công được, nhưng cái lòng trung liệt của nhà họ Đặng cũng đủ làm cho người đời sau tưởng nhớ đến, bởi vậy hiện nay còn có đền thờ ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh...” (nxb Tân Việt, Sài Gòn, tr. 197)
THUẬT HOÀI
Là bài thơ tự sự của Đặng Dung khi ông đem quân giúp vua Trùng Quang Đế, nhưng do lòng người ly tán, quân binh ít ỏi, lương thực thiếu thốn nên cuối cùng đã thất bại. Bài thơ thể hiện ý chí sắt đá của một người anh hùng nhưng không may là không gặp thời thế, công việc chưa xong thì tuổi đã già
Bài Thuật hoài được viết bằng chữ Hán theo thể thất ngôn luật
Nguyên tác:
感懷
世事悠悠奈老何
無窮天地入酣歌
時來屠釣成功易
運去英 雄飲恨多
致主有懷扶地軸
洗兵無路挽天河
國讎未報頭先白
幾度龍泉戴月磨
Phiên âm Hán-Việt:
THUẬT HOÀI
Thế sự du du nại lão hà
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
Thời lai đồ điếu thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa
Trí chủ hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma
Dịch nghĩa:
Việc đời dằng dặc mà ta đã già, biết làm thế nào
Trời đất mênh mông đắm trong cuộc rượu hát ca
Khi gặp thời, người làm nghề hàng thịt, kẻ câu cá cũng dễ thành công
Lúc lỡ vận, bậc anh hùng đành phải nuốt hận nhiều
Giúp chúa, những mong xoay trục đất lại
Rửa vũ khí không có lối kéo tuột sông Ngân xuống
Thù nước chưa trả được mà mái tóc đạ bạc sớm
Bao phen mang gươm báu mài dưới bóng trăng
Bản dịch của Tản Đà:
Việc đời man mác, tuổi già thôi
Đất rộng trời cao chén ngậm ngùi
Gặp gỡ thời cơ may những kẻ
Tan tành sự thế luống cay ai
Phò vua bụng những mong xoay đất
Gột giáp sông kia khó vạch trời
Đầu bạc giang san thù chửa trả
Long tuyền mấy độ bóng trăng soi
Bản dịch của Phan Kế Bính:
Việc đời bối rối tuổi già vay
Trời đất vô cùng một cuộc say
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay
Vai khiêng trái đất mong phò chúa
Giáp gột sông trời khó vạch mây
Thù trả chưa xong đầu đã bạc
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày
Bản dịch của Phan Võ:
Việc thế lôi thôi tuổi tác này
Mênh mông trời đất hát và say
Gặp thời đồ điếu thừa nên việc
Lỡ vận anh hùng luống nuốt cay
Giúp chúa những lăm giằng cốt đất
Rửa đòng không thể vén sông mây
Quốc thù chưa trả già sao vội
Dưới nguyệt mài gươm đã bấy chầy
Bản dịch của Ngô Văn Phú:
(Tinh hoa và Nhân tài đất Việt
NXB Hội Nhà Văn-Hà nội 2008)
NỖI LÒNG
Dằn dặt chuyện đời biết tính sao
Say cùng trời đất hát nghêu ngao
Gặp thời kẻ mọn nên công dễ
Vận lỡ anh hùng hận mấy tao
Giúp chúa những mong giành đất cõi
Tẩy binh khôn dễ kéo trời cao
Quốc thù chưa trả đầu phơ tóc
Trăng sáng mài gươm mới độ nào